Hội trà đá 8

Cover image for CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)
Polka-dot man
Polka-dot man

Posted on • Originally published at baoanhthai.substack.com

CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)

PHẦN 1

Có nhiều bạn hỏi tôi về dự đoán xem cuộc chiến ở Ukraine sẽ đi tới đâu. Tôi nghĩ rằng, cần phải thấy được con đường dẫn tới cuộc chiến tranh này thì mới đoán được nó sẽ đi về đâu. Vì cuộc chiến tranh này chấm dứt thế nào sẽ được quyết định bởi phía Nga là chính nên ở phần đầu bài này, tôi sẽ tóm tắt lại con đường mà người Nga đã đi tới chiến tranh. Khi chúng ta nhìn sự việc theo cách nhìn của người Nga và nhìn vào lịch sử của họ, chúng ta có thể dự đoán được họ sẽ kết thúc cuộc chiến tranh này ra sao. (Nếu bạn cho rằng cuộc chiến tranh này sẽ kết thúc bởi một thắng lợi của Ukraine sau khi họ chiếm lại hoặc Nga phải trả lại Crimea và 4 tỉnh vừa bị sáp nhập vào Nga thì nên dừng đọc ở đây).

Ngày 7/12/2022, báo Die Zeit của Đức, đăng một bài phỏng vấn dài với cựu thủ tướng Đức, Angela Merkel. Trong cuộc phỏng vấn Merkel nói “thỏa thuận Minsk năm 2014 là một cố gắng nhằm giúp cho Ukraine có thêm thời gian. Quốc gia này cũng sử dụng thời gian này để trở nên mạnh hơn, như chúng ta đang thấy hôm nay”. Vài ngày sau cuộc phỏng vấn này, cựu tổng thống Pháp, Francois Hollande, người cùng với Merkell là đồng bảo trợ cho Ukraine trong cuộc đàm phán với Nga, cũng thừa nhận một điều tương tự trong cuộc phỏng vấn với tờ báo Kyiv Independent. Khi được hỏi “Ông có nghĩ rằng các thỏa thuận Minsk nhằm để làm chậm bước tiến của Nga ở Ukraine?” Hollande đã trả lời “Đúng thế, Angela Merkel đã đúng ở điểm này”.

Phản ứng từ phía Nga là dễ hiểu. Giới truyền thông của Nga lập tức trích dẫn hai ý kiến này để khẳng định cho quan điểm có từ lâu của họ rằng từ năm 2014 tới tháng 2/2022, mọi hành động của phương Tây đối với đàm phán cũng như ký kết chỉ nhằm mục đích mua thời gian cho Ukraine (với lực lượng quân đội lúc đó đang trên đường sụp đổ hoàn toàn sau cuộc bao vây lớn của quân Nga tại Debaltsevo) và chuẩn bị cho một cuộc chiến trong tương lai với Nga. Chưa bao giờ báo chí Nga có bằng chứng rõ ràng, trực tiếp như vậy từ hai nguyên thủ của hai quốc gia phương Tây bảo trợ cho Ukraine trong 2 thỏa thuận Minsk. Phản ứng từ phía tổng thống Nga Putin thì bình thản hơn nhiều. Ông chỉ bình luận rằng mình thất vọng vì thái độ của phương Tây trong việc ký kết và thực hiện hai thỏa thuận Minsk.

Vậy vấn đề đặt ra là:

(i) Người Nga có biết về việc đàm phán và ký thỏa thuận Minsk của phương Tây chỉ là mua thời gian cho Ukraine để nước này tăng cường năng lực quân sự cho một cuộc chiến tranh với Nga trong tương lai?

(ii) Nước Nga có chuẩn bị cho cuộc chiến Ukraine không? Và nếu có thì là bắt đầu từ lúc nào?

(iii) Tại sao Merkel và Hollande lại nói điều này vào tháng 12/2022, sau 8 năm liền giữ kín chuyện đó?

(iv) Người Nga sẽ đi tới đâu trong cuộc chiến này và những gì sẽ diễn ra trong thời gian tới?

Đối với câu hỏi thứ nhất, tôi tin rằng người Nga biết rất rõ ý định của phương Tây, ngay cả khi đang đàm phán lẫn sau khi các thỏa thuận Minsk đã được ký. Vào thời điểm đó, tình báo Nga đã thâm nhập mọi tầng lớp kiến trúc xã hội và chính quyền của Ukraine. Số lượng người trong các lực lượng công lực và vũ trang của Ukraine có cảm tình với Nga cũng rất nhiều. Do đó, việc phương Tây ráo riết tái vũ trang cho quân đội Ukraine cũng như các hoạt động ngầm để phá hoại việc thực hiện thỏa thuận Minsk 1 và 2 không thể qua mắt được người Nga. Mặc dù phương Tây đã cố gắng thanh lọc sự ảnh hưởng của Nga đối với bộ máy chính quyền của Ukraine nhưng sự thâm nhập của Nga sâu tới mức tới khi chiến tranh nổ ra thì có tới 2/6 thành viên đoàn đàm phán của Ukraine với Nga đã bị loại bỏ vì tội phản quốc. Ở vùng Zaporozhy có gần 50 nhân viên của lực lượng an ninh Ukraine (SBU) đã ở lại vùng bị Nga chiếm và hợp tác với họ. Điều này đã dẫn tới một loạt cuộc thanh trừng sau đó đối với lãnh đạo SBU miền Đông Ukraine. Hoặc việc bắt giữ các quan chức cao cấp nhất của tập đoàn Motor Sich, công ty sản xuất các động cơ cho máy bay chiến đấu, trực thăng cho quân đội Ukraine vì tội phản quốc do đã cung cấp các động cơ này cho Nga trong suốt 8 năm qua.

Ngoài nguồn tin từ các điệp viên thâm nhập vào hệ thống của Ukraine thì người Nga cũng hoàn toàn có thể xác định được ý định của phương Tây và Kiev dựa trên việc phân tích các thông tin công khai. Việc tái trang bị cho quân đội và chuẩn bị cho chiến tranh là một việc không thể chỉ thực hiện gói gọn trong phạm vi lĩnh vực quân sự mà nó liên quan tới mọi khía cạnh của xã hội – từ giáo dục thế hệ trẻ, bài trừ văn hóa Nga, thay đổi luật pháp và chính sách đối với miền Đông – và cuối cùng và rõ ràng nhất là khu vực Donbass trong 8 năm không bao giờ ngừng tiếng pháo của Ukraine bắn vào các vùng ly khai.

Một lý do khác là sự hiểu biết và kinh nghiệm lịch sử. Ban lãnh đạo của Nga nghiên cứu rất kỹ các chiến lược cũng như kỹ thuật của phương Tây nhằm chống Liên bang Xô Viết trước đây và Nga hiện nay. Đó là một chiến lược tổng thể bao quát mọi lĩnh vực.

Đối với kinh tế thì hàng loạt chính sách tinh vi từ ngăn cản Nga gia nhập các định chế thương mại, tài chính quốc tế tới việc sử dụng các hiệp định thương mại làm con bài để mặc cả tới các hạn chế đối với chuyển giao công nghệ và vốn cho Nga (ngay cả trước khi cuộc chiến Ukraine xảy ra). Một ví dụ điển hình nhất là việc EU yêu cầu Ukraine chỉ được lựa chọn hoặc là ký hiệp định thương mại với họ hoặc là ký với Nga và đây là khởi đầu của cách mạng maidan năm 2014 và cuộc chiến hôm nay.

Đối với lĩnh vực chính trị - xã hội thì đó là việc thâm nhập của các tổ chức NGO phương Tây vào xã hội Nga để truyền bá các giá trị phương Tây nhằm thay đổi các “giá trị truyền thống” và hỗ trợ cho các lực lượng chính trị thân phương Tây. Các ví dụ điển hình là việc khuyến khích thay đổi nhận thức về đồng tính luyến ái (LBGT) trong xã hội Nga và chỉ trích, cô lập chính quyền Nga và Nhà thờ Chính thống giáo vì những nỗ lực của họ để bảo vệ các “giá trị truyền thống” của Nga về vẫn đề này cũng như các nỗ lực nhằm thay đổi cách nhìn của người Nga đối với các vấn đề lịch sử thời Liên bang Xô Viết.

Đối với lĩnh vực ngoại giao thì đó là việc lôi kéo các quốc gia Đông Âu và các nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô Viết cũ rời khỏi các quan hệ hợp tác với Nga, trở thành thành viên của NATO hoặc chấp nhận cho Mỹ đặt các căn cứ quân sự.

Đối với lĩnh vực quân sự thì đó là việc hỗ trợ từ gián tiếp tới trực tiếp, từ tiền bạc tới vũ khí cho các lực lượng, các quốc gia có các xung đột vũ trang với Nga. Các hỗ trợ của phương Tây đối với lực lượng Hồi giáo Apghanistan để chống Liên Xô từ năm 1979 tới 1989, các lực lượng nổi dậy ở Chechnya trong 2 cuộc chiến 1994 và 2000 và các hỗ trợ cho Gruzia dẫn tới cuộc chiến 5 ngày năm 2008 với Nga. Và gần đây nhất là các hỗ trợ cho Ukraine.

Vậy câu hỏi đặt ra là nếu như đã biết rõ ý định của phương Tây như vậy thì người Nga đã chuẩn bị cho chiến tranh từ lúc nào?

Tôi nghĩ rằng người Nga đã bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc chiến gần như là trực tiếp với NATO từ sau cuộc chiến 2008 với Gruzia. Trong 2 cuộc chiến với Chechnya, người Nga biết rằng phương Tây gián tiếp tài trợ cho các lực lượng ly khai Chechnya thông qua các lực lượng hồi giáo mà họ đã hỗ trợ trong chiến tranh Apghanistan 1979-1989 với mục đích khiến cho Nga bị sa lầy vào một cuộc nội chiến. Ở Gruzia năm 2008, người Nga đã nhận thấy rằng NATO đã bắt đầu trực tiếp trang bị cho một quốc gia có thể có gây chiến tranh với lực lượng thân Nga ở Nam Ossetia và Abkhazia. Cùng khoảng thời gian mà Saakashvili lên nắm quyền tại Gruzia (và dẫn tới cuộc chiến 2008) thì một nhân vật khác thân phương Tây cũng lên nắm quyền ở Ukraine (tổng thống Yuschenko lên nắm quyền năm 2004 sau các hỗn loạn xã hội tương tự như ở maidan 10 năm sau). Vào lúc đó, tôi tin rằng Putin (lúc đó là thủ tướng) đã tin rằng sớm hay muộn, NATO sẽ biến Ukraine thành một Gruzia khác trong cuộc xung đột với Nga. Mặc dù người Nga đã thành công ở Gruzia trong chiến tranh 2008 và sau đó tổng thống Saakashvili bị thất cử và trở thành tội phạm phải lưu vong, nhưng cuộc chiến đó đã bộc lộ rõ sự lạc hậu của lực lượng vũ trang Nga. Quân Nga đã chiến thắng trong cuộc chiến 2008 là do (i) sự dũng cảm của binh sỹ và tướng lĩnh Nga tại quân khu Bắc Cáp-ca-dơ (Caucasus) chứ không phải do trình độ kỹ thuật, hậu cần của Nga và (ii) quy mô nhỏ bé của quân đội Gruzia.



(Binh lính Nga tại Georgia năm 2008. Trang bị của họ không khác gì quan đội Xô Viết những năm 1990).

Các phân tích đối với cuộc chiến này cho thấy nếu phương Tây tách được Ukraine khỏi ảnh hưởng của Nga và NATO trang bị vũ khí cho nước ngày thì vấn đề của Nga sẽ trở nên vô cùng nghiêm trọng. Vào thời điểm Liên Xô tan rã, các nước Baltic là nơi sản xuất các thiết bị điện tử, bán dẫn lắp trên các vũ khí của Liên Xô, và Ukraine là nơi sản xuất xe tăng, thiết giáp, tàu chiến, máy bay, tên lửa, và là nơi nghiên cứu và sản xuất các loại hợp kim đặc biệt, các loại động cơ cho toàn bộ các khí tài của Liên bang. Các phòng thiết kế từ xe tăng tới máy bay, tên lửa và tàu chiến cũng chủ yếu nằm tại Ukraine chứ không phải ở Nga. Trước nguy cơ trở thành một quốc gia có quân đội và lượng vũ khí lớn nhất Liên bang Xô Viết cũ nhưng lại không có nền công nghiệp quốc phòng đáng kể (từ nghiên cứu tới sản xuất nguyên liệu cơ bản (thép, hợp kim) và động cơ) người Nga đã phải cố làm tất cả những gì có thể. Họ chấp nhận trách nhiệm trả toàn bộ các khoản nợ của Liên bang Xô Viết để đổi lại việc nhận về càng nhiều vũ khí nặng càng tốt - từ máy bay ném bom chiến lược tới tàu chiến. Đối với hạm đội biển Đen, thậm chí tình báo Nga đã phải sử dụng việc kích động các binh lính và sỹ quan của hạm đội từ chối tuyên thệ trung thành với Ukraine (dù rằng theo nguyên tắc đã thống nhất thì quân đội đóng ở đâu sẽ thuộc về quốc gia nơi đóng) để tuyên thệ trung thành với Nga. Trong 10 năm sau đó, người Nga dùng khí gas và dầu giá rẻ cung cấp cho Ukraine để đổi lại các động cơ, thép và các phụ tùng mà họ không thể sản xuất được cho vũ khí nặng của mình.

Vào năm 2004, khi Yuschenko lên nắm quyền tại Ukraine, một cơn ác mộng có thể xảy ra với Nga là Ukraine sẽ cắt bỏ toàn bộ các hoạt động hợp tác quân sự với Nga (khiến cho toàn bộ hải quân, không quân của Nga sẽ bị ảnh hưởng nặng nề vì không có phụ tùng thay thế). Thêm vào đó, nếu lực lượng quân đội Ukraine được NATO tái trang bị lại và trở nên thù địch với Nga thì tình hình sẽ nghiêm trọng hơn rất nhiều.

Dưới thời Liên bang Xô Viết, Hồng quân có hai cụm quân mạnh nhất, được trang bị hiện đại nhất đóng tại Đông Đức và Ukraine (vâng, chính là Ukraine). Các lực lượng Hồng quân đóng tại Nga và Belarussia đều được trang bị và huấn luyện kém hơn cụm quân tại Đông Đức (đối đầu trực tiếp với NATO) và cụm tại Ukraine (bảo vệ trung tâm kinh tế, quân sự quan trọng nhất của Liên bang). Theo thỏa thuận với Tây Đức và Mỹ, cụm Hồng quân từ Đông Đức rút về đã được giải thể. Trong khi đó toàn bộ lực lượng Hồng quân tại Ukraine đã trở thành nòng cốt của quân đội Ukraine sau này.

Các yếu tố trên dẫn tới một vấn đề nghiêm trọng là nếu Ukraine “trở cờ” theo NATO mà Nga chưa kịp xây dựng lại nền công nghiệp quốc phòng (từ nguyên liệu cơ bản như thép, hợp kim tới các thiết bị tinh vi như thiết bị bán dẫn và điện tử, với sản phẩm hoàn thiện cho cả hải, lục, không quân và lực lượng tên lửa chiến lược) thì nước Nga sẽ là một người khổng lồ có đôi chân đất sét khi quân đội to lớn của nó không có nền công nghiệp quốc phòng hỗ trợ. Nguy hiểm thứ hai là quân đội Ukraine cho tới năm 2000 không phải trải qua các thiệt hại của các cuộc chiến. Nếu chất lượng của đội quân này đi xuống thì chỉ là vì họ tự thoái hóa. Trong khi đó quân đội Nga đã phải trải qua 2 cuộc chiến dài ngày tại Chechnya và 1 cuộc chiến ngắn ngày tại Gruzia. Lực lượng quân sự của Nga bị tổn thất qua các cuộc chiến này, đặc biệt là trong 2 cuộc chiến tại Chechnya. Nguy hiểm thứ ba là về số lượng, quân đội Ukraine đứng thứ 2 ở châu Âu, chỉ sau quân đội Nga. Các sỹ quan của Ukraine hiểu quân đội Nga như trong lòng bàn tay vì trước năm 1991, họ là một và sau năm 1991 quân đội Nga không có nhiều thay đổi cả về khoa học, kỹ thuật, tổ chức, chiến thuật, chiến lược. Trong khi đó, nếu quân đội Ukraine được sự hỗ trợ của NATO về vũ khí, tổ chức, hậu cần và tình báo thì dù Ukraine có quy mô kinh tế, dân số nhỏ hơn Nga nhưng với sự hiểu biết về Nga và các hỗ trợ kỹ thuật, tình báo từ phương Tây, quân đội Ukraine sẽ là đối thủ ngang ngửa với quân đội Nga.

Người Nga nhận thức được vấn đề trên nên sau khi Yuschenko lên nắm quyền ở Ukraine, họ đã bắt đầu đẩy nhanh tốc độc xây dựng lại nền công nghiệp quốc phòng. Tuy nhiên, chỉ sau cuộc chiến với Gruzia năm 2008 với sự thật phũ phàng về quân đội Nga bị phơi bày thì người Nga mới dồn lực vào phát triển công nghiệp quốc phòng và tái trang bị lại quân đội. Sau năm 2008, lần đầu tiên sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, Putin, lúc đó là thủ tướng, đưa ra một chương trình hiện đại hóa quân đội với một ngân sách khổng lồ trong nhiều năm tới. Điều này khiến cho bộ trưởng tài chính Nga lúc đó đã từ chức vì ông cho rằng kế hoạch đó sẽ dẫn tới việc nước Nga lại rơi vào tình trạng phá sản một lần nữa khi đi theo vết xe đổ của Liên bang Xô Viết khi chi quá nhiều cho quân sự. Sự hiện đại hóa quân đội Nga bị chậm lại vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 và chỉ bắt đầu tăng tốc sau khi Nga thoát khỏi cuộc khủng hoảng.

Trong thời gian xây dựng lại nền công nghiệp và hiện đại hóa quân đội, ở Ukraine người Nga chơi theo luật chơi của phương Tây. Họ cũng chi tiền, hỗ trợ các đảng phái thân Nga để thắng cử và dùng các lợi ích kinh tế (gas và dầu giá rẻ, các khoản tín dụng ưu đãi) để giữ Nga trong vòng ảnh hưởng của mình. Người Nga hiểu rằng kể cả trường hợp khi một chính quyền Ukraine thân phương Tây và được NATO đào tạo, huấn luyện quân đội thì cũng sẽ không thể dễ dàng phát động một cuộc chiến chống Nga khi mà văn hóa Nga và tiếng Nga còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống. (Một ví dụ điển hình cho việc tiếng Nga chiếm vai trò quan trọng là nội các của tổng thống Poroshenko sau cách mạng maidan đã cố gắng sử dụng tiếng Ukraine và tiếng Anh để thay thế tiếng Nga nhưng rồi cuối cùng đành phải chấp nhận sử dụng tiếng Nga trong các cuộc họp vì đó là thứ tiếng duy nhất mà tất cả các thành viên chính phủ có thể nghe nói mà không cần phiên dịch). Nói một cách khác, muốn để cho Ukraine có chiến tranh với Nga thì phương Tây cần phải loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Nga, thay đổi lại nhận thức về lịch sử của Ukraine. Dưới các thời tổng thống Yuschenko và Yanukovic, ảnh hưởng của phương Tây lên Ukraine tăng lên rõ rệt, thế nhưng văn hóa Nga vẫn được tôn trọng và lịch sử gắn liền giữa Ukraine với Nga và Liên bang Xô Viết không bị xâm phạm.

Tuy nhiên, sau cách mạng maidan 2014, ý định của phương Tây đã bộc lộ rõ. Dự luật đầu tiên của chính quyền mới (mà thực tế là chính quyền này được bầu ra khi tổng thống Yanukovic bị phế truất không đúng pháp luật (không đủ phiếu để phế truất ông này)) là loại bỏ tiếng Nga khỏi đời sống. Dù dự luật không được thông qua nhưng nó đã thổi bùng ngọn lửa ly khai ở miền Đông nơi đại đa số người dân có tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ. Tiếp theo đó là sự trỗi dậy của các lực lượng dân tộc chủ nghĩa cực đoan của Ukraine với lịch sử phục vụ cho Đức Quốc xã trong Thế chiến 2 và việc Kiev coi Stepan Bandera, nhà sáng lập của phong trào này, là anh hùng của Ukraine. Quyết định này không chỉ khiến người Nga ghê tởm mà nó cũng khiến cho đồng minh thân cận thứ 2 của Ukraine trong cuộc chiến này là Ba Lan khó chịu. Bandera và phong trào dân tộc của ông ta đã giết hại hàng trăm ngàn người Ba Lan cùng người Do Thái và người Nga khi họ mặc bộ quân phục Đức Quốc xã. Tiếp sau các thất bại nặng nề trong cuộc chạm trán với các lực lượng chính quy Nga (các lực lượng này đã tiến hành một cuộc chiến tranh ngắn nhưng khốc liệt dưới danh nghĩa quân ly khai Donbass với Ukraine) dẫn tới việc buộc phải ký thỏa thuận Minsk để mua thời gian tái trang bị như Merkel và Hollande xác nhận gần đây, quân đội Ukraine đã tiến hành một cuộc chiến tranh không tuyên bố liên tục trong 8 năm đối với các vùng ly khai ở Donbass. Cùng lúc đó, sách giáo khoa mới được biên soạn, các sách sử được thay đổi, các hoạt động đào tạo quân sự và bài Nga đối với tầng lớp trẻ được ráo riết tiến hành. Ukraine, mặc dù vẫn coi Crimea và các vùng ly khai miền Đông và người dân ở đó là người Ukraine, đã tiến hành mọi biện pháp từ kinh tế (cấm vận, ngừng cấp lương hưu cho người về hưu, chặn nguồn cung cấp nước cho cả Crimea và vùng Donetsk) tới quân sự. Việc hợp tác với NATO trở nên chặt chẽ. Các chuyên gia NATO trong 8 năm tới đào tạo và huấn luyện cho quân đội Ukraine ngay trên đất Ukraine. Vũ khí phương Tây được cung cấp để tấn công vào các vùng ly khai.

Việc tái vũ trang cho Ukraine và bài trừ văn hóa, ảnh hưởng Nga và thay đổi lịch sử để tạo ra một vết cắt không thể nối liền giữa hai nước và chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh trực tiếp giữa Ukraine và Nga chỉ là một phần nhỏ của các nỗ lực mà phương Tây nhằm làm suy yếu Nga. Những gì phương Tây làm với Ukraine chỉ là phần nổi nhỏ của một tảng băng chìm. Phần chìm của tảng băng là toàn bộ các hoạt động cấm vận được tiến hành một cách toàn diện để đánh quỵ nền kinh tế, xói mòn sự ổn định chính trị và xã hội tại Nga.

Về kinh tế, đó là một hệ thống cấm vận toàn diện và phức tạp nhất từ trước tới nay được phương Tây áp dụng chống lại Nga. Hệ thống cấm vận này đánh vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế: từ nông nghiệp tới công nghiệp và tài chính; từ các ngành sinh lợi nhất cho ngân sách nhà nước Nga tới các ngành cần thiết cho cuộc sống của người dân.

Về chính trị và ngoại giao, phương Tây đã làm mọi cách để cô lập nước Nga và độc ác hóa hình ảnh của quốc gia, dân tộc, văn hóa Nga. Việc này thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, với mức độ từ tinh vi tới thô thiển. Chúng ta đã thấy sự sắp xếp cố ý của phương Tây trong nhiều cuộc gặp quốc tế sau năm 2014; trong đó ghế ngồi của các quan chức Nga, và thậm chí của cả tổng thống Putin bị đặt vào các vị trí cô lập, tách biệt với những người khác. Hình ảnh của nước Nga, người Nga trong điện ảnh, báo chí của phương Tây luôn luôn gắn với một quốc gia độc tài, tàn ác, mafia và luôn là nguồn nguy hiểm cho hòa bình thế giới (khác hẳn với con số thống kê thực tế là sau chiến tranh thế giới thứ hai tới nay thì số cuộc chiến mà Mỹ khởi đầu nhiều hơn số cuộc chiến mà Liên Xô, Nga và Trung Quốc tham gia cộng lại). Phương Tây quy mọi thứ xấu xảy ra là do Nga – từ việc Trump trúng cử tổng thống Mỹ tới giá cả hay lạm phát gia tăng. Hệ thống tuyên truyền này đã tạo ra một nỗi sợ Nga (Russophobia) (tương tự như cách họ đã tạo ra nỗi sợ Trung Quốc – Chinophobia) lớn tới mức khi cuộc chiến Ukraine – Nga nổ ra, các hoạt động bài trừ mọi yếu tố Nga diễn ra ở mọi lĩnh vực từ văn hóa tới thể thao, từ hoạt động nhân đạo tới ngoại giao quốc tế. Thậm chí mèo Nga cũng không được tham dự các cuộc thi quốc tế. Các tác phẩm của nhạc sỹ Nga từ trước thế kỷ 20 cũng không được chơi và thậm chí các viện bảo tàng phương Tây còn công khai tuyên bố không trả các tác phẩm nghệ thuật mà họ mượn viện bảo tàng Nga để trưng bày.

Danh sách những vấn đề tương tự sẽ còn rất dài. Tuy nhiên, để tiết kiệm thời gian, có thể nói ngắn gọn là trong con mắt của người Nga, phương Tây đang chuẩn bị cho một cuộc chiến toàn diện chống lại Nga một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tùy hoàn cảnh. Và mục đích của cuộc chiến đó là lại đánh quỵ nước Nga như họ đã làm với Liên bang Xô Viết.

Ở phần tiếp chúng ta sẽ chuyển sang xem xét vấn đề chuẩn bị chiến tranh của nước Nga.

CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH

Rõ ràng là người Nga đã nhìn nhận rằng cuộc chiến sắp tới sẽ là cuộc chiến giữa phương Tây và Nga dưới hình thức một cuộc chiến tranh ủy nhiệm trên đất Ukraine. Và kết cục của cuộc chiến tranh đó sẽ là sự tồn vong của Liên bang Nga. Họ tin rằng phương Tây sẽ dùng Ukraine là cú hích để đẩy Nga vào con đường sụp đổ như Liên bang Xô Viết trước đó. Do đó, họ đã hành động và phát súng đầu tiên của cuộc chiến không phải là một quả tên lửa hành trình bắn vào đất Ukraine vào tháng 2 năm 2022 mà thực ra nó đã diễn ra âm thầm trước đó.

Vào năm 2015, tổng thống Obama đã phát biểu khá tự tin về nước Nga trong một cuộc họp báo quốc tế. Đại ý của ông là Putin đã sai lầm khi xâm lược Ukraine và sáp nhập Crimea. Giờ đây (năm 2015) nước Nga đang đánh mất hết những gì nó đã cố gắng nỗ lực trong 25 năm trước đó (tính từ thời Liên Xô sụp đổ) để có được. Phương Tây, hơn bao giờ hết đã đoàn kết để chống lại Nga. Các biện pháp cấm vận kinh tế đang khiến nước Nga suy sụp và sự sụp đổ của nền kinh tế là thấy trước khi giá trị đồng rúp tụt thê thảm. Các lệnh cấm vận sẽ khiến cho nước Nga không có cơ hội để hiện đại hóa đất nước của mình và nguồn thu chủ yếu dựa vào dầu khí của Nga đang tụt thảm hại. Cuộc sống của những người dân Nga đang bị ảnh hưởng khủng khiếp bởi quyết định liều lĩnh của Putin và giới tinh hoa Nga. Vào thời điểm đó, Putin không bình luận về những gì mà Obama nói. Tuy nhiên, vào năm 2022, thực tế đã chứng minh là người Nga đã có những biện pháp chống lại những gì mà Obama nói.

NGA RA ĐÒN TRƯỚC VỚI MỸ VÀ RU NGỦ CHÂU ÂU

Phương Tây nhìn nhận rằng nền kinh tế của Nga (vào năm 2014) rất phiến diện và hoàn toàn phụ thuộc vào việc xuất khẩu năng lượng. Thậm chí nền nông nghiệp Nga không thể cung cấp đủ cho nhu cầu cơ bản của người dân và họ phải nhập lương thực, thực phẩm từ phương Tây bằng ngoại tệ từ bán năng lượng. Nếu giá dầu tụt xuống tới một mức nhất định thì ngân sách của Nga sẽ bị thâm hụt và nếu như việc đó kéo dài, Nga sẽ lâm vào một cuộc khủng hoảng. Một cuộc khủng hoảng sẽ là tiền đề để cho các hoạt động xâm nhập của phương Tây tại Nga biến thành một cuộc cách mạng loại bỏ Putin khỏi vị trí quyền lực như họ đã làm ở Ukraine và một số nước cộng hòa Xô Viết cũ. Vũ khí của Mỹ chính là công nghệ khai thác dầu đá phiến (shale oil). Vào thời điểm này Mỹ đã phát triển được công nghệ khai thác dầu mỏ từ đá phiến và giá dầu thế giới ở mức cao kỷ lục 110 đô la Mỹ/thùng vào tháng 9/2013 đã khiến cho nền công nghiệp dầu đá phiến của Mỹ phát triển vượt bực. Sản lượng dầu đá phiến đã khiến cho giá dầu mỏ tụt từ mức 110 đô/thùng năm 2013 xuống còn 43 đô/thùng vào tháng 3/2015 và tới mức 28 đô/thùng vào tháng 2/2016. Cùng với hàng loạt cấm vận với Nga, việc giá dầu giảm gần 6 lần đã khiến cho ngân sách của chính phủ Nga bị âm. Lúc này, phương Tây tin rằng chỉ là vấn đề thời gian cho tới thời điểm dự trữ ngoại hối của Nga cạn kiệt và nước Nga hoặc phải từ bỏ Crimea và vùng Donbass hoặc cách mạng sẽ xảy ra. Thế nhưng một điều bất ngờ là Nga đã bắt tay với các nước sản xuất dầu thuộc khối OPEC và (trái với dự đoán của phương Tây) đẩy giá dầu xuống thấp hơn nữa bằng cách tăng sản lượng không ngừng. Vào tháng 4/2020, giá dầu xuống tới mức kỷ lục 11 đô/thùng vào tháng 4/2020. Đây là đòn quyết định hạ gục ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ. Ngành này đã liên tục chịu lỗ kể từ năm 2015 sau khi giá dầu xuống mức 40 đô/thùng. Vào năm 2020, hầu hết các doanh nghiệp dầu đá phiến của Mỹ đã đóng cửa, phá sản. Từ năm 2020 tới nay, kể cả giá dầu tăng vì cuộc chiến Ukraine, có hơn 500 doanh nghiệp dầu đá phiến của Mỹ tiếp tục phá sản và ngành này không ngóc đầu lên được.



Như vậy người Nga đã nổ súng trước và triệt hạ vũ khí kinh tế mạnh nhất của Mỹ nhằm vào việc bóp chết nguồn ngân sách của Nga. Thắng lợi của Nga ở đây không phải là chỗ vẫn giữ được nguồn thu ngân sách mà là triệt hạ một cách dứt điểm ngành dầu đá phiến, vũ khí mà Mỹ có thể dùng để thao túng giá dầu.

Nhưng người Nga đã làm thế nào để đạt được điều đó? Đúng là để diệt ngành dầu đá phiến của Mỹ, Nga phải hạ giá dầu bằng cách tăng sản lượng dầu khai thác. Tuy nhiên, nếu hạ giá dầu thì Nga cũng sẽ cạn nguồn thu và có vẻ cuộc chơi sẽ là ai ngạt thở trước. Tuy nhiên, Nga đã không rơi vào cái bẫy đó. Song song với việc hạ giá dầu thì họ tăng nguồn thu bằng cách bán khí đốt cho châu Âu. Với hệ thống đường ống được xây dựng tiện lợi cho việc cung cấp khí tới hầu hết các quốc gia ở châu Âu, Nga không có đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực cấp khí đốt ở thị trường này. Trong khi Merkel và Hollande nghĩ rằng họ đã ru ngủ được Putin bằng 2 thỏa thuận Minsk thì Putin ru ngủ lại họ bằng cách khiến họ tin rằng Putin tin vào tất cả những gì họ ký. Chính vì lý do đó, họ không ngừng tăng lượng khí mua từ Nga (và điều đó có nghĩa là khiến họ phụ thuộc vào Nga hơn). Chính trong thời kỳ này thì đường ống dẫn khí North Stream 2 được bắt đầu xây dựng vì đường ống North Stream 1 đã bị khai thác hết công suất.

Một điều nực cười là châu Âu, trong khi cùng Mỹ giúp Ukraine chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với Nga thì họ lại tin rằng Nga hoàn toàn bị họ xỏ mũi và đang ngây thơ cung cấp khí gas giá rẻ cho họ. Cùng với lượng khí gas được châu Âu tiêu thụ không ngừng tăng thì ngân sách của Nga không bị ảnh hưởng bởi giá dầu giảm mà thực tế ngân sách chính phủ Nga lại bội thu. Điều này khiến cho Putin có thể ra đòn quyết định cùng OPEC hạ gục ngành dầu đá phiến của Mỹ bằng cách hạ giá dầu không thương tiếc. Nói một cách ngắn gọn là Putin đã dùng tiền của châu Âu để ra đòn triệt hạ Mỹ. Việc châu Âu phụ thuộc vào khí đốt giá rẻ của Nga cũng sẽ khiến họ trả giá sau này, khi cuộc chiến Ukraine xảy ra.

Chính sự triệt hạ ngành dầu đá phiến của Mỹ và khiến châu Âu phụ thuộc vào khí đốt giá rẻ của Nga đã khiến cho Mỹ và châu Âu, khi cuộc chiến Ukraine xảy ra, phải viện đến các biện pháp phi thị trường là cấm nhập khẩu dầu và tiến dần tới cấm nhập khí đốt của Nga. Những biện pháp phi thị trường này thể hiện rõ là nó gây hậu quả nặng nề cho các nước nhập dầu và khí của Nga hơn là cho Nga. Việc các biện pháp phi thị trường không có hiệu quả rất dễ hiểu vì nếu như nó có hiệu quả thì Liên bang Xô Viết đã không sụp đổ.

ĐỐI PHÓ VỚI CẤM VẬN

Trong giai đoạn từ 2014 tới 2022, các biện pháp cấm vận của phương Tây chủ yếu nhằm vào các mặt hàng tiêu dùng và các dịch vụ cao cấp như tài chính, ngân hàng. Họ cho rằng vì nền sản xuất và dịch vụ cao cấp của Nga yếu kém nên khi cấm vận các ngành ngày cuộc sống của người Nga sẽ bị ảnh hưởng ngay lập tức. Việc biến mất các sản phẩm lương thực từ phương Tây như bơ, sữa từ Hà Lan, rượu vang từ Pháp và các thiết bị điện tử cao cấp sẽ khiến cho người Nga thấy rằng chất lượng cuộc sống của họ đi xuống. Các cấm vận đối với dịch vụ cao cấp như tài chính, ngân hàng sẽ khiến người dân, đặc biệt là tầng lớp giàu và trung lưu sẽ bất mãn với chính quyền.

Để đối phó lại, người Nga phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và dồn nỗ lực vào các ngành xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng mà phương Tây không nhận ra. Trong suốt 8 năm quân đội Ukraine nã pháo vào 2 nước cộng hòa ly khai vùng Donbass, khi mà “con em chúng ta thì đi học còn con em họ thì phải ngồi dưới hầm” như lời tổng thống Ukraine Poroshenko nói, thì nền nông nghiệp Nga đã tiến bộ nhảy vọt. Từ chỗ là một quốc gia nhập khẩu lương thực (một truyền thống kéo dài từ thời Liên Xô), nước Nga trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về lúa mạch, thịt heo và nhiều mặt hàng khác. Toàn bộ lương thực của Nga được sản xuất trong nước (và điều này khiến cho cuộc sống của người dân không bị ảnh hưởng khi cuộc chiến với Ukraine xảy ra). Đặc biệt hơn, tận dụng lợi thế nguồn năng lượng giá rẻ, nước Nga đã trở thành nước xuất khẩu các mặt hàng nghe tiếng thì không ấn tượng nhưng thực ra có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế. Một điển hình đó là ngành phân bón. Chỉ khi cuộc chiến xảy ra và các biện pháp cấm vận triệt để được phương Tây tuyên bố thì người ta mới phát hiện ra là nạn đói ở nhiều nơi sẽ xảy ra ngay trong năm 2022 nếu không có lúa mì của Nga và sẽ xảy ra ở nhiều nơi khác nữa trong những năm tới nếu không có phân bón do Nga sản xuất.

Tương tự như thế, khi cuộc chiến nổ ra, bất chấp những cảnh báo từ cựu tổng thống Nga Medvedev, châu Âu tin rằng họ có đủ tiền để mua khí hóa lỏng từ Mỹ dù giá cao để đảm bảo nhu cầu sưởi của người dân qua mùa Đông. Thế nhưng khi tất cả các kho dự trữ đã đầy và họ không còn phải lo cho việc sưởi nữa thì họ phát hiện ra rằng người Nga không có ý định từ bỏ mục đích của mình và họ đã chuyển sang một mô hình chiến tranh lâu dài. Lúc này thì vấn đề với châu Âu không phải là làm thế nào để cai nghiện “khí đốt Nga” mà là cai nghiện “khí đốt giá rẻ của Nga”.

Nếu vấn đề chỉ là thay thế khí đốt Nga thì châu Âu có thể kiếm nguồn thay thế bằng khí hóa lỏng trong thời gian trước mắt từ Mỹ và nguồn năng lượng mặt trời, gió về lâu dài. Tuy nhiên, khi vấn đề là “khí đốt GIÁ RẺ” thì họ không thể tìm được nguồn năng lượng nào rẻ hơn nguồn khí đốt của Nga trong thời gian trước mắt lẫn lâu dài. Họ phát hiện ra rằng các ngành công nghiệp của họ hiện tại tuy mất dần thị phần thế giới vào tay Trung Quốc nhưng vẫn còn cầm cự được ở châu Âu vì giá thành họ còn cạnh tranh ở mức nào đó được với hàng Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu không còn nguồn khí đốt giá rẻ của Nga, giá thành của tất cả các ngành sử dụng nhiều năng lượng sẽ tăng tới mức không thể cạnh tranh với Trung Quốc. Mà các ngành công nghiệp này, nguy hiểm hơn, lại là đầu vào của nhiều ngành công nghiệp khác. Ví dụ như công nghiệp hóa chất cơ bản, các ngành luyện kim, phân bón. Nếu các ngành này phá sản hoặc bị Trung Quốc thâu tóm thì các ngành khác là đầu ra của các ngành này sớm hay muộn cũng chịu chung số phận.

Để đối phó với việc nguồn xuất khẩu khí đốt sang châu Âu giảm, người Nga đã xây dựng hệ thống cung cấp khí đốt tới Trung Quốc, quốc gia có nền công nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Nền công nghiệp Trung Quốc được hưởng lợi từ khối lượng khí lớn, ổn định và giá rẻ trong cuộc cạnh tranh với châu Âu sẽ như hổ mọc thêm cánh (trong khi châu Âu như một con hổ không cánh mà lại bị mất chân). Cần lưu ý ở đây là dù Nga bán khí cho Trung Quốc với giá rẻ nhưng việc rẻ ở đây là so với thị trường. Với cuộc chiến ở Ukraine ngày càng khốc liệt và các hãng khí hóa lỏng Mỹ bán khí hóa lỏng cho châu Âu cao gấp 3-4 lần giá ở Mỹ đã khiến cho mặt bằng giá khí tăng cao. Điều này dẫn tới giá bán khí của Nga lại cao hơn giá bán cho châu Âu lúc chưa chiến tranh. Điều này tạo ra một nghịch cảnh là Ukraine bị tàn phá và quân đội bị tiêu hao vì chiến tranh, châu Âu dốc hầu bao để trả tiền cho năng lượng tăng giá, và tiền đó rơi vào túi của các nhà sản xuất khí hóa lỏng Mỹ, giúp Nga thu thêm tiền từ Trung Quốc và giúp Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn trong sản xuất so với châu Âu. Và cuộc chiến càng kéo dài thì xu thế này càng tiếp tục, ngoại trừ khi Mỹ bán khí hóa lỏng cho châu Âu với giá thấp. Tuy nhiên, nếu Mỹ làm vậy thì tên chính thức của họ đã thành Liên bang Xô Viết Bắc Mỹ.

Chúng ta thấy rằng với ngành dầu đá phiến của Mỹ, người Nga dùng tiền mua khí đốt của châu Âu để có thể đẩy giá dầu xuống thấp để tiêu diệt. Thế nhưng với châu Âu, người Nga lại dùng tiền mua khí của người Trung Quốc để nuôi chiến tranh với Ukraine và dùng khả năng cạnh tranh của hàng Trung Quốc để tàn phá nền công nghiệp châu Âu. Putin là một võ sĩ Judo giỏi, và có vẻ như các chính sách của ông có dùng triết lý của các đòn thế Judo khi sử dụng chính sức nặng của đối thủ để gây ra thương tích cho họ sau khi khóa thế và quật họ ngã xuống.

ĐỐI NỘI

Nếu các hoạt động phát triển nông nghiệp và công nghiệp trong nước vừa có tác dụng nâng cao sức đề kháng của nền kinh tế Nga là một biện pháp vừa nhằm chuẩn bị chiến tranh vừa nhằm nâng cao đời sống kinh tế thì bên cạnh đó Nga cũng thực thi một loạt các hoạt động phòng ngừa khác.

Đối với cách thâm nhập ưa thích của phương Tây là qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Nga đã luật hóa các quy định hạn chế các tổ chức này và cuối cùng là đóng cửa hoạt động của các tổ chức có xu hướng tác động vào đời sống chính trị, xã hội. Hệ thống internet, kênh lan truyền các thông tin chống chính phủ trong các cuộc “cách mạng màu” cũng được kiểm soát. Nga là quốc gia đầu tiên triển khai và thực nghiệm việc ngắt kết nối hoàn toàn hệ thống internet trong nước với quốc tế. Các quy định nhằm bảo vệ “giá trị truyền thống” của dân tộc Nga và Chính thống giáo cũng được ban hành, đặc biệt là nhắm vào các đối tượng đồng tính luyến ái (LGBT).

Cùng với việc loại trừ các ảnh hưởng của phương Tây trong đời sống xã hội, các hoạt động về giáo dục lịch sử, truyền thống dân tộc cũng được triển khai song song với các tuyên truyền về các hoạt động bài Nga ở Ukraine. Tổ chức Wagner với cơ cấu tương tự như đội quân Lê dương của Pháp cũng được triển khai trong thời kỳ này và thử thách chiến đấu ở nhiều địa bàn.

Cuối cùng, khi cuộc chiến tranh nổ ra, Putin và toàn thể ban lãnh đạo của Nga đã có những buổi tường thuật trực tiếp trên truyền hình về việc ra quyết định mở chiến dịch tại Ukraine và sau này là sáp nhập 4 tỉnh của Ukraine vào Nga. Nhiều người cho rằng Putin chỉ đơn thuần là diễn kịch. Tuy nhiên, tôi cho rằng Putin đã tính đến trường hợp có những người trong ban lãnh đạo Nga có thể sẽ “trở cờ” trong quá trình chiến tranh hoặc sau này sẽ đặt vấn đề “xét lại” đối với cuộc chiến Ukraine và đổ cho Putin quyết định mọi thứ một cách độc tài. Bằng việc truyền hình trực tiếp cho nhân dân và cho cả thế giới, Putin cho thấy ông đã đưa toàn bộ hệ thống Nga vào con đường chỉ có tiến lên chứ không thể lùi và không một cá nhân lãnh đạo nào có thể tìm cách “nhảy khỏi con tàu” khi khó khăn xảy ra.

MẶT TRẬN NGOẠI GIAO

Người Nga nhận thấy rằng Obama đã quá tự tin khi cho rằng toàn bộ cộng đồng quốc tế sẽ đi theo Mỹ trong cuộc chiến chống Nga. Nước Nga đã lần lượt, từng bước tiến hành một chính sách để đảm bảo chia rẽ liên minh mà Mỹ dự định lập ra trong tương lai khi cuộc chiến Ukraine nổ ra.

1/ Phần đầu tiên là chính sách ngoại giao với châu Âu và NATO.

Trong khi Đức và Pháp tin tưởng rằng mình đã ru ngủ được Nga khi ký 2 thỏa thuận Minsk; trong khi Ukraine nhìn nhận sự ủng hộ hạn chế của Nga đối với vùng Donbass trong suốt 8 năm vùng này bị Ukraine dội pháo và từ chối thực hiện thỏa thuận Minks là sự ngần ngại của Nga đối với việc leo thang cuộc chiến thì cả châu Âu và Ukraine đều không nhận ra được là Nga đang từng bước cài thế cho cuộc chiến tranh tới. Đức, quốc gia mạnh nhất trong khối EU sau khi Anh rời khỏi khối, trở thành quốc gia có tỷ lệ phụ thuộc vào khí đốt của Nga lớn nhất. Trong năm 2022, tổng số các gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi giá nhiên liệu tăng của Đức là khoảng 1.300 tỷ EU. Dù 1.300 tỷ EU là một con số khủng khiếp nhưng nó cũng chỉ giúp được cho những người được hỗ trợ cầm cự chứ không phải là phát triển. Và ngay cả với một nước giàu như Đức thì việc tiếp tục hỗ trợ như vậy cũng sẽ nhanh chóng khiến quốc gia này đuối sức. Trong khi đó, người Ukraine không có khả năng đánh bại Nga trên chiến trường và người Nga thì chưa hề có ý định bỏ cuộc. Đó cũng là lý do khiến cho Đức là nước dè dặt nhất trong việc hỗ trợ vũ khí cho Ukraine khi chiến tranh nổ ra.

Khi cuộc chiến Ukraine nổ ra và EU áp dụng các biện pháp trừng phạt, Nga đã áp dụng các biện pháp đáp trả một cách khác nhau đối với các quốc gia EU để chia tách hành động của khối này. Đối với các quốc gia cuồng nhiệt chống Nga nhất là 3 nước vùng Baltic và Ba Lan, Nga cắt toàn bộ các nguồn cung năng lượng – từ khí, dầu tới điện – ngay khi các nước này từ chối thanh toán theo hợp đồng đã ký và thực hiện cấm vận. Với các nước khác như Đức và trung Âu, Nga mở lối cho họ vẫn giữ được thể diện là đang thực hiện cấm vận nhưng thực ra là vẫn thực hiện hợp đồng đã ký với Nga. Đó là việc không thanh toán bằng tiền Nga nhưng chuyển tiền EUR cho ngân hàng Nga để ngân hàng đổi sang rúp Nga và chuyển cho bên bán. Điều trên đã dẫn tới sự không đồng bộ trong hành động (giai đoạn đầu) tới mức đối đầu giữa một số quốc gia. Điển hình nhất là Hungary đã chỉ thực thi một phần cấm vận và từ chối những biện pháp gây thiệt hại cho nước này. Thái độ cứng rắng của Hungary đã dẫn tới việc bà Ursula von der Layen, chủ tịch ủy ban châu Âu phát biểu rằng sẽ có biện pháp xử lý Hungary. Phát biểu này đã dẫn tới phản ứng dữ dội của các đảng cánh tả các nước EU. Họ gọi đó là một hành động đe dọa phi pháp, phi dân chủ. Thực tế là tới lúc đó tới nay, Hungary vẫn hành động theo lợi ích của mình, từ chối cung cấp vũ khí, tiền bạc cho Ukraine và từ chối thực hiện các cấm vận có hại cho họ nhưng EU cũng không có bất kỳ biện pháp nào để trừng phạt quốc gia này. Điều này đã khiến cho chính phủ mới ở một số nước sau khi chính phủ cũ (với quan điểm chống Nga triệt để) sụp đổ giảm hẳn cường độ chống Nga (ví dụ như Bulgary và Ý).

Phản ứng về mặt ngoại giao của Nga với Đức và Ba Lan cũng khác nhau. Nếu như Nga luôn có các bình luận đối với các phát biểu của Đức thì họ có thái độ phớt lờ đối với các phát biểu của Ba Lan. Trường hợp có phát biểu thì người Nga luôn ý tứ ám chỉ dã tâm của Ba Lan khi nhiệt tình giúp đỡ Ukraine là nhằm chiếm lại vùng lãnh thổ miền Tây Ukraine. Ngay cả việc Ba Lan tăng cường cho quân đội thêm 250 ngàn quân gần đây thì Nga cũng ám chỉ rằng số quân đó là để bù cho số quân sẽ tiến vào chiếm vùng phía Tây Ukraine. Trong khi mối quan hệ giữa Ba Lan và Nga đã bị đóng băng thì quốc gia này, hào hứng với sự gia tăng vai trò quốc tế kể từ khi chiến tranh Ukraine nổ ra, đã quay sang yêu cầu Đức bồi thường hàng ngàn tỷ EUR cho các thiệt hại mà nước này gây ra cho Ba Lan trong Thế Chiến 2. Mặc dù Đức đã thẳng thừng từ chối nhưng Ba Lan vẫn tiếp tục lời qua tiếng lại. Điều này cho thấy rằng các quốc gia lớn nhất của châu Âu đang bị phân tâm, không tập trung vào việc chống Nga khi cuộc chiến Ukraine bắt đầu chuyển sang giai đoạn quyết định.

2/ Thổ Nhĩ Kỳ

Trường hợp Thổ Nhĩ Kỳ cũng là một ví dụ khác của chính sách ngoại giao Nga. Thổ tuy không phải là một thành viên của EU nhưng lại là thành viên quan trọng của NATO khi họ kiểm soát eo biển Dardanelles và Bosphorus nối giữa Địa Trung Hải và Biển Đen. Vào năm 2015, người Nga đã tiến hành chiến dịch quân sự ở Syria, quốc gia phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ để chống ISIS. Sau 5 năm, ISIS đã gần như bị tiêu diệt hoàn toàn nhưng người Nga đã nắm được một quân bài quan trọng để đàm phán với Thổ Nhĩ Kỳ. Kẹp ở giữa Thổ Nhĩ Kỳ về phía Bắc và vùng kiểm soát của chính phủ Syria về phía Nam là vùng kiểm soát của lực lượng người Kurds được Mỹ hỗ trợ và trang bị. Trước đó người Mỹ đã viện trợ và trang bị cho lực lượng này để họ chống lại ISIS. Tuy nhiên, bản thân người Kurds lại có giấc mộng riêng, họ muốn có một quốc gia Kurdistan riêng của mình – và quốc gia đó sẽ bao trùm các vùng đất có người Kurds sống (tức là có cả một phần phía Nam của Thổ Nhĩ Kỳ). Điều này đã khiến cho Thổ Nhĩ Kỳ đi từ đối đầu với Nga (Thổ từng bắn hạ một máy bay Su-24 của Nga vào năm 2015) đến hợp tác với Nga tại Syria. Họ có chung một mục đích là sử dụng các biện pháp từ kinh tế tới quân sự để loại trừ lực lượng nổi dậy Kurds thân Mỹ. Sự hợp tác này đã dẫn tới việc Thổ trở thành một cực khác ngoài Mỹ (và châu Âu), Nga, và Ukraine trong cuộc chiến.

Cho thời điểm này, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia duy nhất có thể khiến Nga nghiêm túc nói chuyện (chúng ta có thể còn nhớ chuyện Paris, Washington cố gắng gọi điện và điện Kremlin không trả lời vào các thời điểm nghiêm trọng trong năm 2022). Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến cho cả Ukraine lẫn Nga ngồi lại đàm phán. Họ cũng thực hiện việc giữ các tù binh Ukraine mà Nga chấp nhận trao đổi trong lần đầu tiên tại Thổ cho tới hết chiến tranh. Họ cũng là người trung gian cho đàm phán và bảo đảm thực hiện cho thỏa thuận bán lúa mì cho Ukraine. Và quan trọng hơn nữa, họ đang trở thành trung tâm vận chuyển khí đốt của Nga cho vùng Nam châu Âu thay thế cho Ukraine.

Việc chơi hai mang của Thổ Nhĩ Kỳ là rõ ràng với tất cả các bên. Thế nhưng, càng ngày, Thổ Nhĩ Kỳ càng nghiêng về phía Nga vì có lợi hơn (và Nga cũng có lợi hơn cả về mặt kinh tế lẫn chính trị, ngoại giao khi hợp tác với Thổ). Trong chiến tranh lạnh, Thổ Nhĩ Kỳ được phương Tây o bế vì họ có thể ngăn chặn hạm đội Biển Đen của Liên Xô tiến sang Địa Trung Hải. Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ thì Thổ Nhĩ Kỳ mất vai trò quan trọng với NATO. Quốc gia này thường xuyên bị châu Âu chỉ trích vì các chính sách của mình và dù đã xếp hàng 20 năm nhưng vẫn chưa được gia nhập EU. Khi cuộc chiến Ukraine nổ ra, Thổ Nhĩ Kỳ phát hiện ra rằng, nếu họ duy trì quan hệ tốt với Moscow thì không chỉ biên giới phía Nam của họ yên ổn (khi mà cùng Nga họ có thể khống chế và tiến tới tiêu diệt lực lượng Kurds thân Mỹ) mà vị thế của họ với Mỹ và EU cũng tăng vượt bậc. Vào đầu chiến tranh, việc cung cấp các thiết bị bay không người lái (UAV) của Thổ Nhĩ Kỳ cho Ukraine được sử dụng như là một con bài để đàm phán với Nga. Tuy nhiên, chỉ một thời gian rất ngắn sau khi thấy rằng Nga có đầy đủ phương tiện để tiêu diệt các UAV này thì Thổ Nhĩ Kỳ đã ngừng cung cấp các sản phẩm này cho Ukraine và chuyển sang đàm phán với Nga về trung chuyển dầu khí. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì nếu tiếp tục cung cấp UAV, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đánh mất uy tín của thiết bị này (mà họ đã có được một cách vang dội trong cuộc chiến Armenia – Azerbaijan trước đó) khi quân Nga bắn rụng hàng loạt. Trong khi đó việc trở thành bên trung chuyển khí đốt cho Nga sẽ mang lại một nguồn lợi lớn và ổn định trong thời gian dài cho Thổ Nhĩ Kỳ. Với mức lạm phát có lúc lên tới 30%/năm như hiện nay, nguồn thu từ Nga sẽ có ý nghĩa sống còn với Thổ Nhĩ Kỳ. Với mối quan hệ với Nga, Thổ Nhĩ Kỳ có thể sử dụng lợi thế của mình để mặc cả với phương Tây. Ví dụ điển hình nhất là Thổ Nhĩ Kỳ đã bỏ phiếu chống đơn gia nhập NATO của Thụy Điển nếu nước này không giao cho Thổ Nhĩ Kỳ những lãnh đạo của đảng công nhân người Kurds thân Mỹ. Biểu hiện rõ ràng nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đối với Mỹ (và phương Tây) là phát biểu của ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ khi nghe tin Mỹ gửi lời chia buồn đối với vụ đánh bom tại thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ khiến nhiều người chết hồi cuối năm 2022. Ông nói rằng Thổ Nhĩ Kỳ từ chối nhận lời chia buồn đó vì họ biết rất rõ ai là người huấn luyện, đào tạo, hỗ trợ những kẻ đánh bom.

3/ Saudi Arabia

Saudi Arabia là đồng minh quan trọng bậc nhất của Mỹ ở vùng Vịnh. Quốc gia này là nước bỏ nhiều tiền nhất cho hai cuộc chiến của Mỹ chống Iraq. Tuy nhiên, kể từ khi hợp tác với Nga trong việc triệt hạ ngành dầu đá phiến của Mỹ giai đoạn 2015-2020, Saudi Arabia càng ngày càng trở nên độc lập với Mỹ. Đỉnh điểm của việc này là sau khi cuộc chiến Ukraine nổ ra và giá dầu, khí trên thế giới tăng phi mã, cả tổng thống Mỹ, tổng thống Pháp và thủ tướng Anh đã lần lượt tới Saudi Arabia để đề nghị nước này giúp giảm giá dầu bằng cách tăng sản lượng hoặc cung cấp cho họ với giá ưu đãi. Tuy nhiên, cùng với việc đón tiếp lạnh nhạt (Saudi Arabia cử một tỉnh trưởng ra đón các nguyên thủ trên) câu trả lời của Saudi Arabia là cắt giảm sản lượng khiến cho giá tăng còn cao hơn. Hành động này, không có gì nghi ngờ nữa, đã giúp cho Nga cả về thế và lực trong việc duy trì chiến tranh.

4/ Trung Quốc

Cuộc chiến Ukraine mang lại lợi ích cho Trung Quốc ở nhiều mặt. Là một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới và đang soán ngôi nền kinh tế số 1 của Mỹ, Trung Quốc luôn khát năng lượng. ¾ năng lượng của Trung Quốc được chuyên chở qua eo biển Singapore và biển Đông. Nếu có sự biến, hạm đội 7 của Mỹ sẽ có thể dễ dàng chặn 2 điểm này và Trung Quốc sẽ bị bóp nghẹt về năng lượng. Do đó, một nguồn năng lượng cung cấp trên bộ, giá rẻ và ổn định, với khối lượng lớn là sự bảo đảm lý tưởng cho Trung Quốc đối với phát triển lâu dài. Nga là một đối tác lý tưởng về cung cấp năng lượng vì Trung Quốc biết Nga ý thức rất rõ rằng họ không thể xâm chiếm, hay kiểm soát được Trung Quốc và họ sẽ bị thiệt hại to lớn nếu Trung Quốc sụp đổ. Ngược lại, Nga cũng hiểu rõ rằng Trung Quốc không có tham vọng về đất đai với một quốc gia có tiềm lực vũ khí hạt nhân mạnh nhất thế giới. Những người nói rằng Trung Quốc đang nhòm ngó vùng Siberia của Nga thực ra không biết gì về việc ảnh hưởng và sự hiện diện của Trung Quốc tại châu Phi. Tuy nhiên đây là một vấn đề khác, không bàn ở đây.

Với một dân số 1,5 tỷ người và nền kinh tế quy mô số 1 thế giới, Trung Quốc hoàn toàn có thể thay thế được châu Âu trong tương lai xa (nếu châu Âu hoàn toàn cắt đứt việc mua khí đốt của Nga).

Trong những năm 1970s, người Mỹ đã hy sinh Việt Nam Cộng Hòa và một phần quan trọng quyền lợi của Đài Loan để tiếp cận và hợp tác với Trung Quốc để chống Liên Xô. Kissinger lúc đó đã nhận xét rất đúng rằng tuy Trung Quốc lúc đó còn nghèo khó nhưng không thể không cần Trung Quốc trong việc đánh bại Liên Xô. Tuy nhiên sang đầu thế kỷ 21, người Mỹ lại đi ngược cái nguyên tắc thành công đó. Họ cùng lúc coi Nga và Trung Quốc là hai kẻ thù và để cho hai đối thủ này bắt tay liên minh với nhau.

5/ Ấn Độ

Cùng với Trung Quốc, Ấn Độ là nước được hưởng lợi lớn qua cuộc chiến Ukraine. Với việc phương Tây cấm việc mua dầu của Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đã nhập dầu của Nga về rồi trộn với dầu có nguồn gốc khác và bán lại cho phương Tây để hưởng một khoản lớn từ giá chiết khấu của Nga và phần giá tăng do thị trường. Khi bị chỉ trích về việc mua dầu của Nga, ngoại trưởng Ấn Độ đã vỗ mặt nhà báo châu Âu rằng đã đến lúc châu Âu dừng việc cho rằng mọi vấn đề của của họ là vấn đề của thế giới còn mọi vấn đề của phần còn lại của thế giới thì không liên quan tới họ. Trong một cuộc phỏng vấn khác, ông nói rằng phương Tây nên nhớ rằng Ấn Độ từ lâu đã không còn là một nước thuộc địa và họ sẽ hành động không phải theo cách mà phương Tây muốn mà là cách có lợi nhất cho lợi ích quốc gia của họ.

6/ Sự mở rộng của BRICS

Vào tháng 7/2022 lãnh đạo các nước G7 và NATO có các cuộc họp thượng đỉnh cách nhau chỉ vài ngày với mục đích là thống nhất hành động chống Nga. Cuộc họp này diễn ra sau cuộc họp thượng đỉnh của khối BRICs (với các thành viên là Nga, Trung Quốc, Brasil, Ấn Độ và Nam Phi. Tại cuộc họp này các thành viên không có bất kỳ hành động nào chống hay lên án cuộc chiến của Nga tại Ukraine. Đồng thời, sau cuộc họp đã có hai quốc gia là Algeria, Argentina và Iran nộp đơn gia nhập khối. Các quốc gia khác đang quan tâm tới việc gia nhập và thường xuyên cử đại diện dự thính các cuộc họp của khối là Saudi Arabia, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Kazakhstan, Nigeria, Senegal, Thái Lan và United Arab Emirates.

Với 5 quốc gia thành viên hiện tại thì vào năm 2023 GDP tổng cộng của khối theo sức mua liên quan (PPP) sẽ chiếm 36% thế giới trong khi G7 chiếm 27%. Tỷ lệ này sẽ còn thay đổi hơn theo hướng tăng thêm cho BRICs vì dân số của nhóm này chiếm 41% dân số thế giới so với 17% của nhóm G7. Tất cả các nền kinh tế này đều là các nền kinh tế năng động và đang đi lên.



Một sự trùng hợp khó chịu cho phương Tây là tất cả các nước thành viên của khối BRICs và các nước đang muốn trở thành thành viên đều không tham gia vào các lệnh cấm vận trừng phạt Nga. Khởi đầu là sự khác nhau giữa hai khối về quan điểm liên quan tới cách vận hành nền thương mại quốc tế. Giờ đây, hai khối này đã bắt đầu thể hiện sự khác nhau về quan điểm chính trị.

Trước đây nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc vào quan điểm của hai khối là G7 và G20, trong đó G7 đóng vai trò chủ chốt. Để khuyến khích Nga hợp tác, G7 đã tạo ra cơ chế G7+1 để Nga có thể tham gia dự thính các cuộc họp của khối. Tuy nhiên, sau khi khối BRICs được tạo ra thì các lời đe dọa của phương Tây là loại Nga ra khỏi khối G7+1 không có ý nghĩa. Và thực tế là giờ đây không ai nhớ là G7 đã loại Nga ra khỏi nhóm G7+1 lúc nào (vì nó không ảnh hưởng gì tới các diễn biến đang xảy ra). Tương tự, khối G20 cũng mất ý nghĩa khi các thành viên chủ chốt của khối lại là thành viên của G7 và BRICs. Điều đó dẫn tới việc người ta quan tâm tới quan điểm của G7 và BRICs chứ không để ý G20 bàn cái gì.

Khi chiến tranh Ukraine nổ ra, phương Tây chợt phát hiện ra rằng G7 không còn là cực kinh tế duy nhất của thế giới và khối này không còn quyền lực để buộc cả thế giới phải tuân theo các quyết định cấm vận của khối nữa. Đến lúc đó, có lẽ họ đã nhận ra rằng sự phát triển của BRICs chính là một phần quan trọng của kế hoạch chuẩn bị chiến tranh của Nga – nó đã làm xói mòn nghiêm trọng sức mạnh kinh tế của phương Tây trong cuộc chiến chống Nga.

KẾT LUẬN CHO PHẦN 1

Nhìn nhận lại toàn bộ các vấn đề vừa nêu, chúng ta có thể thấy rằng, về thực lực tương quan giữa Nga và Ukraine, vào năm 2014, quân đội Nga có thể đè bẹp quân đội Ukraine và tiến thẳng tới Kiev. Tuy nhiên, nếu nhìn về tương quan lực lượng giữa phương Tây và Nga thì chiến thắng đó có thể sẽ dẫn tới sự sụp đổ của nước Nga sau đó. Vào thời điểm đó, khối đoàn kết của phương Tây sẽ rất chặt chẽ. Nước Nga chưa chuẩn bị và có khả năng chống lại một cuộc cấm vận ngặt nghèo và nền kinh tế có thể sụp đổ. Nền công nghiệp quốc phòng của Nga lúc đó cũng chưa được chuẩn bị. Về bối cảnh quốc tế thì nước Nga cũng chưa tạo ra được các liên minh, đồng minh có chung lợi ích với mình.

Tuy nhiên, khi ký 2 thỏa thuận Minsk và trong 8 năm tiếp theo, Putin đã làm theo hai phương châm của hai địch thủ của Liên Xô trước kia đã từng thành công rực rỡ. Thứ nhất là “thao quang dưỡng hối” của Đặng Tiểu Bình. Thứ hai là liên kết với Trung Quốc để đánh kẻ thù của mình của Kissinger. Nước Nga đã “náu mình chờ thời” như Trung Quốc những năm 1980. Họ thầm lặng tái cấu trúc lại nền kinh tế và phát triển nền công nghiệp quốc phòng chuẩn bị cho chiến tranh. Về mặt đối ngoại, không chỉ bắt tay với Trung Quốc theo thuyết của Kissinger, Nga đã bắt tay với những đối thủ khó nhằn nhất và tiến vào những vùng khó khăn, phức tạp nhất để tạo thế. Đó là việc tiến vào Syria. Việc cắm quân ở Syria đã giúp cho Nga có quân bài đàm phán và thực tế đã lôi kéo được hai đối tác quan trọng cho cuộc chiến sắp tới. Đó là Saudi Arabia, người đã giúp Nga “bẻ nanh hổ” bằng cách triệt hạ nền công nghiệp dầu đá phiến của Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, người đang vừa là “kỳ đà cản mũi” khối NATO và phương Tây trong nỗ lực chống Nga vừa đang trở thành người thay thế Ukraine trong việc cung cấp khí cho Nam Âu (và điều đó có nghĩa là giúp Nga duy trì sự ảnh hưởng vào châu Âu).

Người Nga đã sử dụng tiền mua khí đốt của châu Âu để đánh nghành công nghiệp dầu đá phiến của Mỹ rồi sau đó lại dùng tiền mua khí đốt của Trung Quốc để ngăn chặn cấm vận của châu Âu.

Không chỉ dừng lại ở đó, để chuẩn bị cho một cuộc chiến khu vực với Ukraine, Nga đã tiến hành các bước để thay đổi cuộc chơi kinh tế toàn cầu. Đó là việc cùng Trung Quốc lập ra khối BRICs và các thỏa thuận sử dụng đồng tiền nội tệ của khối để mua bán dầu và hàng hóa trong khối. Phương Tây quen lối suy nghĩ là Liên Xô và người Nga chỉ mạnh về quân sự và không có khả năng ứng phó về kinh tế. Thế nhưng ở đây, nước Nga bắt đầu cuộc chiến một cách thầm lặng ở mặt trận mà phương Tây cho là mình mạnh nhất – kinh tế. Bằng cách lùi lại và chấp nhận những thiệt thòi kinh tế nhất định, họ đã khiến cho các nước đồng mình trong BRICs thoát khỏi sự đe dọa của phương Tây và tìm thấy lợi ích chung khi chống lại các hoạt động cấm vận của phương Tây. Thay vì việc để phương Tây cô lập và bao vây mình, họ tạo ra nhiều mặt trận với nhiều đối thủ mới cho phương Tây.

Như một tay chơi cờ vua cáo già, Nga ru ngủ châu Âu và khiến cho họ trở nên nghiện ngập với khí đốt của mình. Khi cuộc chiến nổ ra, châu Âu tưởng rằng mình có thể ăn một con xe của Nga (cắt nguồn thu từ khí đốt cho châu Âu và dầu mỏ) thì họ phát hiện ra Nga không mất con xe đó (vì đã có Ấn Độ và Trung Quốc thế vào). Ngược lại châu Âu rơi vào một cơn lốc tăng giá sinh hoạt (mất một con mã). Khi họ bỏ tiền ra để mua khí giá cao từ Mỹ để có đủ năng lượng sưởi qua mùa đông thì họ phát hiện ra là họ có thể sẽ mất một con xe (nền công nghiệp cần nhiều năng lượng có thể sống sót trong năm nay nhưng không thể sống sót trong những năm tới). Nếu họ không có biện pháp xử lý thì họ sẽ mất tiếp con xe khác (các ngành cần nhiều năng lượng lại có sản phẩm là đầu vào của nhiều ngành khác. Ví dụ ngành phân bón là đầu vào của nông nghiệp, luyện kim là đầu vào của nhiều ngành công nghiệp nhẹ, ngành điện là đầu vào của mọi ngành khác). Nếu họ tiếp tục vay tiền để bù lỗ năng lượng và tạo ra nguồn năng lượng mới (điện mặt trời, điện gió) thì giá thành năng lượng còn cao hơn giá bù lỗ và số tiền đó sẽ làm lợi cho Trung Quốc (9/10 công ty hàng đầu về tấm pin mặt trời là của Trung Quốc). Cuối cùng, họ sẽ có một chính phủ nợ nần, và một nền công nghiệp không thể cạnh tranh với Trung Quốc. Lúc đó, việc Trung Quốc thôn tính các doanh nghiệp quan trọng của họ sẽ trở thành hiện thực chứ không còn là mối đe dọa nữa... Lúc đó, họ sẽ mất con hậu trên bàn cờ. Thực tế là đã có 6 chính phủ chống Nga hàng đầu ở châu Âu sụp đổ trong năm 2022 vì không giải được bài toán trên.

Nói một cách ngắn gọn, cuộc chiến tranh Ukraine 2022 đã bắt đầu từ rất lâu trước đó và ở trên các mặt trận không tiếng súng. Người Nga đã âm thầm chuẩn bị cho cuộc chiến này từ rất lâu và có tính toán cẩn thận. Nếu hiểu rõ điều trên, chúng ta sẽ biết rằng việc tuyên bố Nga sắp hết tên lửa như cách các nhà lãnh đạo Ukraine và phương Tây đang nói để ám chỉ rằng Nga sắp bỏ cuộc là vô nghĩa...

Hết phần 1.

Đối với 2 câu hỏi:

(i) Tại sao Merkel và Hollande lại nói điều này vào tháng 12/2022, sau 8 năm liền giữ kín chuyện đó?

(ii) Người Nga sẽ đi tới đâu trong cuộc chiến này và những gì sẽ diễn ra trong thời gian tới?

tôi sẽ trình bày ở bài sau.

LƯU Ý VỀ BẢN QUYỀN

Oldest comments (0)