Ở phần 4 chúng ta đã bàn về việc, vào đầu cuộc chiến tranh, chúng ta thấy những gì Putin muốn cho chúng ta thấy. Mở màn của cuộc chiến là việc 16.000 quân Nga (chiếm khoảng 16% binh lực của họ) đã tiến rất nhanh vào đất Ukraine, kiểm soát một vùng rộng lớn 30.000 km2 và áp sát hai thành phố lớn nhất là Kiev và Kharkov. Các hoạt động ngoại giao giữa Zelensky, phương Tây và Putin cũng chủ yếu liên quan tới các diễn biến trên chiến trường này và vì thế, toàn bộ thế giới tập trung theo dõi vào đây. Với một mật độ quân số vô cùng thưa thớt là 1 người lính cho mỗi 2 km2 chiếm đóng, lực lượng của Nga tại mặt trận Kiev và Kharkov chịu nhiều tổn thất bởi chiến thuật du kích của quân Ukraine và làm cho nhiều người tin rằng quân đội Nga hoàn toàn yếu kém so với Ukraine và mặt trận của quân Nga sẽ sớm sụp đổ.
Trong cùng thời gian đó, hơn 80% binh lực của Nga, với cụm quân lớn nhất tại Crimea đã thành công trong việc đột phá tuyến phòng thủ cô lập Crimea của Ukraine và đánh bại toàn bộ cánh quân phía Nam của nước ngày, tiêu diệt không và hải quân Ukraine. Kết thúc giai đoạn 1 của cuộc chiến là khi quân Nga từ phía Nam (Crimea) đã vượt qua quãng đường hơn 360 km để hợp vây các lực lượng chủ chốt của cánh Nam quân Ukraine tại Mariupol (trong khi đó, cánh quân từ Donbass và Nga sang Mariupol đã mất cũng chừng đó thời gian để vượt qua 1 khoảng đường bằng 1/6 (60 km) so với cánh quân Crimea).
Có 3 sự kiện đánh dấu cho việc kết thúc giai đoạn 1 của cuộc chiến:
(i) Về quân sự: (i) quân Nga đã đánh quỵ cánh Nam, hải quân và không quân của quân đội Ukraine. Người Nga chiếm Kherson, là bàn đạp ở bờ Tây sông Dniepper để đánh tới Odessa. (ii) quân Nga rút khỏi mặt trận phía Bắc (Kiev và Kharkov) để chuyển quân sang Donbass và lần đầu tiên, giới thiệu cơ chế chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang tại Ukraine với tướng Dvornikov, người được phương Tây đặt hỗn danh là “Tên đồ tể ở Syria”, làm tư lệnh.
(ii) Về ngoại giao: các nước NATO chuyển từ thái độ lo sợ Ukraine sụp đổ sang quyết tâm hỗ trợ Ukraine tiến hành chiến tranh tới cùng với Nga. Các biện pháp cấm vận mạnh mẽ nhất được các nước phương Tây tiến hành và họ vững tin rằng nền kinh tế Nga sẽ nhanh chóng rơi vào khủng hoảng và Moscow sẽ buộc phải rút quân khỏi Ukraine.
Giai đoạn 2 của cuộc chiến bắt đầu từ tháng 4/2022 tới tháng 7/2022.
Bản thân Giai đoạn 2 cũng có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ. Giai đoạn thứ nhất (2.1) là từ tháng 4/2022 (khi Nga thành lập bộ chỉ huy quân sự thống nhất tại Ukraine) tới tháng 5/2022, sau khi quân Ukraine ở nhà máy Azovstal, Mariupol ra hàng vào giữa tháng 5/2022. Giai đoạn thứ hai (2.2) là từ tháng 5/2022 tới tháng 7/2022. Trong giai đoạn này, người Nga đánh quỵ cánh quân phía Đông của Ukraine và kết thúc là việc chiếm Severodonetsk và Lysychansk.
Giai đoạn 2.1:
Ngày 18/2/2022, toàn bộ những gì còn lại của các đơn vị chủ lực của quân Ukraine tại miền Nam đã bị dồn vào Mariupol và thành phố này chính thức bị bao vây. Lúc này, sau nhiều lần đàm phán ở Belarus, dự thảo lần thứ 17 của thỏa thuận hòa bình mà cả phía Nga lẫn Ukraine đều thấy có thể chấp nhận được bị Mỹ ngăn chặn ký và Zelensky rút khỏi cuộc đàm phán sau khi các nguyên thủ Đức, Pháp, Anh và Ý tới Kiev để khẳng định quyết tâm hỗ trợ cho Ukraine tới cùng của phương Tây. Cùng giai đoạn này, 2/6 thành viên của đoàn đàm phán Ukraine với Nga bị giết chết trong khi bị lực lượng an ninh Ukraine bắt vì tội phản quốc. Victor Medvedchuck, lãnh tụ đảng đối lập thân Nga, và được cho rằng sẽ là người đứng đầu chính phủ Ukraine mới nếu như quân đội đảo chính Zelensky cũng đã bị bắt sau nhiều ngày lẩn trốn.
Sau khi hợp vây Mariupol xong, quân Nga bất ngờ rút quân khỏi mặt trận Kiev và Kharkov. Trong cuộc rút lui này, lần đầu tiên người Nga sử dụng hệ thống rải mìn tự động mang tên ISDM Zemledeliye. Hệ thống này có hình dáng và cơ cấu hoạt động như một xe phóng tên lửa nhiều nòng và có thể rải một bãi mìn từ khoảng cách xa 5 tới 15 km trong 1 lần bắn. Việc rải mìn này được thực hiện một cách có hệ thống để ngăn chặn lực lượng truy kích và các lực lượng của Ukraine cũng cẩn thận không đuổi theo quân Nga.
Trong 2 tuần, toàn bộ quân rút khỏi mặt trận Kiev gần như biến mất khỏi chiến trường. Nhiều chuyền gia phương Tây cho rằng các đơn vị này đã bị Ukraine đánh quỵ và sẽ phải mất vài tháng để hồi phục. Thế nhưng chỉ 2 tuần sau, chính các đơn vị này lại tiến từ Nga sang Donbass qua ngả Nam Kharkov. Trong 2 tuần đó, họ vừa vượt qua một cung đường dài 1.500 km vừa bổ sung đạn dược, nhiên liệu và lập tức bước vào chiến đấu. Trong 1 tháng rưỡi sau đó, lực lượng rút từ Kiev về này đã chiếm một vùng có diện tích khoảng 4.000 km2 ở Nam Kharkov. Thành công lớn nhất của cánh quân này là việc chiếm Izyum sau 1,5 tháng chiến đấu. Việc mất Izyum khiến cho tuyến đường cao tốc M03 nối giữa Kharkov và Slavyansk rồi Bakhmut ở Donbass bị hoàn toàn cắt đứt.
Hình H2 dưới đây là chiến tuyến của các bên vào ngày 2/4/2022. Các bạn có thể thấy rằng phần màu đỏ là phần Nga kiểm soát hoặc đan xen với quân Ukraine (vùng sọc đỏ chéo) được trải dài từ Kiev tới tận Kharkov. Sang hình H3 (chiến tuyến của các bên vào ngày 21/6/2022) cho thấy người Nga đã bỏ vùng có viền màu vàng ở Kiev để chiếm lấy 4.000 km2 ở Nam Kharkov (vùng có viền màu xanh lá).
Ở đây, tôi muốn nói một chút ngoài lề về cách tính thiệt hại. Trong suốt thời gian từ đầu cuộc chiến tới nay, người Ukraine tuyên truyền về thiệt hại của Nga bằng cách đếm trên màn hình drone các xác chết. Một trong những video nổi tiếng nhất kiểu này là một video trong đó một người lính Ukraine đếm 99.998, 99.999 rồi 100.000 để tuyên truyền rằng Nga đã có 100.000 ngàn binh sỹ thiệt mạng. Tất nhiên, cách đếm xác kiểu đó mang tính tuyên truyền là chính (giống như chuyện các video về “thảm sát ở Bucha” lại có cảnh các xác được cho là chết 4-5 năm ngày nhưng da bàn tay vẫn hồng hào và có xác, ngay trước mặt các nhà báo phương Tây, không chịu được ngạt trong túi xác đã mở túi ra để thở.) Thông thường người ta dùng tình báo để nắm được các con số thương vong thật của đối phương. Tuy nhiên, những cách đó đòi hỏi thời gian dài mới có được. Do đó, một trong những cách xác định thiệt hại của đối phương một cách tương đối chính xác, trong thời gian ngắn là việc quan sát sự di chuyển và khả năng chiến đấu của các đơn vị đối phương trước và sau mỗi trận đánh, chiến dịch. Chúng ta sẽ áp dụng cách này để ước tính một cách định tính về thiệt hại của Nga tại mặt trận Kiev bằng cách quan sát sự di chuyển và sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị rút từ mặt trận này về Donbass.
Chúng ta biết rằng, cánh quân Kiev của Nga đã mất 2 tuần để đi 1 chặng đường dài 1.500 km từ Kiev về Nga, qua Belgorod rồi tiến vào Nam Kharkov. Như vậy cánh quân này trung bình tiến một ngày là khoảng 100 km. Với thời gian ngắn và quãng đường dài như vậy có thể thấy rằng việc cánh quân này kịp thời sửa chữa các xe pháo bị hỏng, tiếp nhiên liệu, bổ sung đạn dược trên đường đi cũng như chuẩn bị tuyến xuất phát cho đạo quân này (dự trữ đạn dược, nhiên liệu tại biên giới Nga để tiếp viện sau khi tiến vào Donbass) đã là một kỳ công về hậu cần. Thời gian đó quá ngắn để có thể bổ sung quân số mới và huấn luyện các tân binh này làm quen với phương thức hoạt động của đơn vị. Nếu như các đơn vị cánh Kiev này bị thiệt hại từ 40% tới 80% như báo chí phương Tây nói thì họ không có khả năng di chuyển trên 1 quãng đường dài như vậy và để bổ sung quân số và huấn luyện sẽ phải mất vài tháng. Điều đó có nghĩa là cánh quân này nếu có bổ sung quân số trong thời gian 2 tuần hành quân đó thì số bổ sung cũng rất nhỏ. Trong khi đó, khi tiến vào Donbass, họ gặp phải một lực lượng lớn, được huấn luyện tốt và sẵn sàng chiến đấu của Ukraine (xin lưu ý rằng chủ lực của Ukraine trong suốt 8 năm chiến tranh với 2 nước cộng hòa ly khai nằm ở vùng Donbass và miền Nam). Tuy nhiên, chỉ sau 1 tháng rưỡi, cánh quân từ Kiev của Nga đã thành công trong việc chiếm Izyum, cắt đứt tuyến đường vận chuyển chiến lược Kharkov-Bakhmut. Điều đó có nghĩa là thiệt hại của họ tại mặt trận Kiev là không lớn nên họ vẫn có sức lực để thực hiện một nhiệm vụ khó khăn trong tháng 5 và 6/2022 (xem hình H4).
Ở trong giai đoạn 1 này, với việc viên tướng kỳ cựu Dvornikov lên nắm quyền tổng tư lệnh quân Nga tại Ukraine, người Nga đã thể hiện chiến lược và chiến thuận quân sự mà họ vẫn dùng đến tận hôm nay.
Chiến lược quân sự đó bao gồm. Thứ nhất, tiêu diệt tối đa sinh lực của đối phương và hy sinh tối thiểu sinh lực của bên mình. Thứ hai, triệt phá tiềm lực quân sự đối phương một cách triệt để, có hệ thống để đảm bảo rằng đối phương không có khả năng hồi phục cả về binh lực lẫn tiềm lực quân sự trong thời gian dài. Thứ ba, không đặt các mục tiêu chính trị ngắn hạn lên trên vấn đề quân sự.
Ở đây, chúng ta cần phải nói rõ là, báo chí phương Tây đã, đang và vẫn sẽ nói về quân đội Nga và cách tiến hành chiến tranh của họ như là một phiên bản khác của quân đội Liên Xô. Bản thân cái gọi là chiến lược, chiến thuật của quân đội Liên Xô cũng đã bị báo chí và giới trí thức phương Tây bóp méo từ sau Thế Chiến thứ hai. Họ luôn có một nhận định là ở cấp chiến lược, quân đội Liên Xô thắng bằng số lượng chứ không phải bằng nghệ thuật chỉ huy tác chiến. Ở trên chiến trường thì quân đội Liên Xô thắng bằng việc hy sinh binh lính một cách không thương tiếc. Họ thích dùng hình ảnh binh lính Hồng quân khoác tay nhau dàn hàng ngang tiến qua bãi mìn để dọn đường cho các đơn vị tiến lên sau, bất chấp là các sự kiện đó được các tướng lĩnh quốc xã, những người đã bị thua trận và vẽ ra trong các hồi ký của mình trong những năm 1960-1970, thời điểm chiến tranh lạnh và chống Liên Xô đang dâng cao. Cũng chính các tướng lính này là những người sáng tác ra huyền thoại kỵ binh Ba Lan xung phong với giáo và gươm vào đội hình xe tăng Đức năm 1939. Trong khi đó, trong thực tế, các trường quân sự phương Tây đều nghiên cứu và thừa nhận rằng ở chiến trường Châu Âu thì chiến dịch Bagration năm 1944 của Hồng quân là chiến dịch được tiến hành một cách hoàn hảo nhất về mọi phương diện. Chiến dịch này đã đánh tan cụm quân trung tâm của Đức với gần 1 triệu quân và mở toang đường cho Hồng quân tiến vào Ba Lan và cuối cùng là tới Berlin. Chiến dịch này và các cuộc tiến công ngay sau đó đã tạo ra một “trại tù binh tự nguyện” lớn nhất và lâu nhất trong Thế Chiến thứ 2. Đó là việc Hồng quân vây chặt một cụm 320 ngàn quân Đức trên bán đảo Courland thuộc Latvia từ tháng 7/1944 tới khi Đức đầu hàng Đồng Minh tháng 4/1945. (Cần lưu ý là hai chiến dịch nổi tiếng nhất của Đồng Minh và Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ 2 là chiến dịch Tuynidi của Đồng Minh và chiến dịch Stalingrad cũng chỉ bao vây và bức hàng được 250 ngàn quân (chiến dịch Tuynidi), và 280 ngàn quân bị vây và 98 ngàn quân bị bắt sống trong chiến dịch Stalingrad). Một chiến dịch khác của Hồng quân được các trường quân sự của khối NATO cũng coi là mẫu mực về vận động tiến công là cuộc tấn công ở Mãn Châu Lý, trong đó Hồng quân đánh tan 1,5 triệu quân Nhật và đồng minh trong một chiến dịch kéo dài gần 1 tháng. Cho dù chiến dịch này được coi là một chiến dịch “bị lãng quên” đối với công chúng nhưng bất kể ai nghiên cứu quân sự đều biết rằng chiến dịch Mãn Châu Lý là chiến dịch thành công nhất trong lịch sử loài người với thời gian thành công ngắn nhất, thương vong ít nhất cho bên tấn công và thiệt hại nhiều nhất cho bên phòng ngự, với quy mô địa lý rộng lớn nhất.
Ở đây, tôi thấy chúng ta nên giành thời gian một chút cho việc hiểu về số liệu thương vong của Liên Xô và Đức trong Thế Chiến thứ 2. Có hiểu nó thì chúng ta mới hiểu được cách mà phương Tây đã tuyên truyền sai lạc trong 70 năm qua ra sao về huyền thoại dùng binh lính làm “bia đỡ đạn” (cannon fodder) được gán cho Liên Xô. Hiểu được vấn đề này thì chúng ta mới hiểu được liệu chiến lược của phương Tây hay Nga sẽ thành công trong cuộc chiến Ukraine trong thời gian tới.
Tổng số thiệt hại của Hồng quân trong chiến tranh thế giới thứ hai theo báo cáo (bao gồm (i) số chết, (ii) mất tích, và (iii) bị bắt làm tù binh) là khoảng 11,5 triệu người. Tuy nhiên, có gần 940 ngàn người được coi là mất tích nhưng thực ra là gia nhập du kích và cuối cùng đã quay lại quân ngũ sau khi Hồng quân phản công. Khoảng 1,8 triệu tù binh sống sót sau chiến tranh và được giải phóng. Lấy 11,5 triệu trừ đi hai số trên (và một số con số khác), chúng ta có được con số khoảng 8,5 triệu binh lính Hồng quân chết. Tuy nhiên, trong số này, có 3,3 triệu không phải chết trên chiến trường mà chết trong trại tù binh của quân Đức. Do đó, số binh lính chết trong chiến đấu là khoảng 5,4 triệu người.
Tổng số binh lính bị chết của Đức trong chiến tranh là 5,5 triệu người. Trong đó, 80%, tức 4,4 triệu người là chết ở mặt trận phía Đông. Trong số này có 380 ngàn người chết trong trại tù binh Liên Xô. Điều này có có nghĩa là có khoảng 4,02 triệu người Đức chết trên chiến trường.
Nếu so sánh số người chết trên chiến trường với dân số của quốc gia năm 1941 (năm cuối cùng còn có số liệu trước khi chiến tranh nổ ra) thì tỷ lệ của Liên Xô là 5,4 triệu/195 triệu dân (2,75%) và của Đức là 4,02 triệu/76 triệu dân (5,29%). Điều này có nghĩa là nếu so sánh về tỷ lệ với dân số thì người Nga thiệt hại ít hơn người Đức bởi hỏa lực trực tiếp trên chiến trường. Việc quân đội Liên Xô có số binh lính chết nhiều hơn hẳn Đức là vì người Đức giết số lượng tù binh gần gấp 10 lần so với Liên Xô (3,3 triệu tù binh chết trong trại của Đức và 380 ngàn chết trong trại của Liên Xô). Ngoài ra cũng cần lưu ý là số thương vong của Hồng quân cũng bao gồm cả số thương vong do chiến đấu với gần 1 triệu quân đồng minh của Đức (nhưng vẫn được tính gộp vào đây – và vì thế, tỷ lệ sẽ thiệt cho phía Liên Xô).
Nếu chúng ta nhìn vào tỷ lệ thương vong của mỗi năm chiến tranh thì sẽ thấy sự phát triển vượt bực của Hồng quân trong giai đoạn sau của chiến tranh – và đặc biệt là cách họ tiết kiệm xương máu.
Vào năm 1941, Liên Xô mất số quân tương đương với 28% (của tổng số thương vong trong toàn cuộc chiến). Trong khi đó quân Đức mất 13%.
Sang năm 1942, tỷ lệ này giữa Liên Xô và Đức là 29% và 16% (điều này có nghĩa là trình độ các tướng lĩnh của Liên Xô trong việc tiết kiệm xương máu binh lính không tăng nhưng họ bắt đầu giết được nhiều người Đức hơn).
Năm 1943, hai bên đạt được tỷ lệ cân bằng, trong đó Liên Xô tốt hơn 1 chút. Tỷ lệ đó là 21% về phía Liên Xô và 22% về phía Đức.
Năm 1944, tỷ lệ này của Liên Xô là 16% trong khi Đức tăng vọt lên 27%.
Năm 1945 là năm ngoạn mục nhất, tỷ lệ của Liên Xô chỉ là 7% trong khi của Đức là 22% (nếu cuộc chiến kéo dài một năm thì con số này sẽ lên tới 44%).
Con số của năm 1945 có nghĩa là vào năm đó, các tướng lĩnh Liên Xô chỉ tốn một số thương vong bằng ¼ năm 1941 nhưng tiêu diệt được gần gấp 2 lần số lính Đức bị giết trong năm 1941. Nếu tính về hiệu quả thì điều đó có nghĩa là Hồng quân năm 1945 có hiệu quả gấp 8 lần chính nó vào năm 1941 còn hiệu quả của quân Đức thì chỉ còn 1 nửa. Về con số tuyệt đối, Hồng quân mất khoảng 800 ngàn người vào năm 1945 còn quân Đức mất 960 ngàn. Các con số cũng cho thấy, từ năm 1943 trở đi, khi Hồng quân bắt đầu tiến về phía Tây, thương vong của họ luôn giảm xuống trong khi thương vong của quân Đức thì luôn tăng lên.
Trong giai đoạn thua trận – phòng thủ 1941-1942, Liên Xô chịu tổn thất bằng 57% của cả cuộc chiến. Trong giai đoạn phản công và thắng lợi 1943-1945, con số tổn thất của họ là 43%. Về phía người Đức, trong giai đoạn thắng trận 1941-1942 họ mất 29% tổn thất. Trong giai đoạn phòng thủ - thua trận 1943-1945, họ chịu 71% tổn thất của cả cuộc chiến. Thông thường, trong một cuộc chiến thì bên tấn công sẽ bị thương vong nhiều hơn và bên phòng thủ bị thiệt hại ít hơn. Thế nhưng ở mặt trận phía Đông, trong năm 1941-1942, quân Đức giỏi hơn hẳn quân Liên Xô nên họ chịu thiệt hại ít hơn khi tấn công và gây thiệt hại nhiều hơn cho bên phòng thủ. Giai đoạn từ 1943-1945 thì tình hình cũng hệt như vậy nhưng Liên Xô là phía có lợi – và con số thống kê cho thấy quân đội Liên Xô ở đỉnh cao năm 1945 hơn hẳn quân đội Đức tại thời điểm đỉnh cao phong độ của họ năm 1941.
Huyền thoại “nướng quân” của Liên Xô vẫn tiếp tục tồn tại bất chấp một thực tế là trong 10 năm tham chiến trực tiếp ở Apghanistan, quân đội Liên Xô có gần 15.000 người chết và 53.000 bị thương. Trong khoảng thời gian ngắn hơn (8 năm từ 1965 tới 1973), quân đội Mỹ mất tại Việt Nam 58.000 người (chết) và 153.000 bị thương (tức là gấp 3 lần thiệt hại của Liên Xô cả về số người chết lẫn bị thương).
Do đó, cái huyền thoại về việc chiến thắng bởi sử dụng “biển người” và binh lính là “bia đỡ đạn” là một thứ do phương Tây sáng tạo ra trong Chiến tranh Lạnh nhưng do được lặp đi lặp lại trong suốt 70 năm, nó đã khiến các nhà lãnh đạo NATO, những người sinh ra, lớn lên mà không phải trực tiếp tham gia cuộc chiến nào, tin là thật. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới những chiến lược và suy tính của họ trong cuộc chiến Ukraine.
Tôi muốn các bạn nhớ kỹ điều này “Liên Xô trước đây và nước Nga bây giờ không chiến đấu và chiến thắng bằng cách ‘nướng quân’” để tiếp tục các phần sau.
Giai đoạn 2.2:
Giai đoạn 2.2 bắt đầu từ thời điểm quân Nga hợp vây Mariupol tới khi họ chiếm được Izyum và kết thúc bằng việc chiếm Severodonetsk và Lysychansk.
Trong giai đoạn này, điểm thu hút sự quan tâm của dư luận nhất là cuộc vây hãm Mariupol và cuối cùng là sự đầu hàng của quân Ukraine tại nhà máy Azovstal. Cuộc vây hãm này thể hiện rõ nhất chiến lược tiêu hao sinh lực nhiều nhất của đối phương với chi phí xương máu ít nhất từ bên mình của quân Nga. Ngoại trừ đơn vị trinh sát đầu tiên tiến vào Mariupol và bị phục kích trong thành phố (chúng ta có thể tìm kiếm trên mạng video về cuộc phục kích 2 chiếc xe tăng T-72 đi đầu của quân Nga này). Sau đó, người Nga tiến hành một cuộc bao vây chặt và siết chặt từ từ như cách một con trăn cuộn chặt và siết dần con mồi tới ngạt thở. Cuộc vây hãm Mariupol gợi nhớ lại cuộc vây hãm Grozny năm 1999 trong cuộc chiến Chechnya lần 2. Tương tự như ở Grozny, sau khi đã tạo ra các hành lang nhân đạo để dân thường rút ra khỏi thành phố, quân Nga tạo thành một vòng vây rộng và tiến vào trung tâm từ tất cả các hướng một cách không vội vã. Các đơn vị Nga sử dụng drone liên tục trong các cuộc tấn công để hiệu chỉnh pháo binh. Các đơn vị bộ binh Nga chỉ tiến lên sau khi các mục tiêu đã bị “làm mềm” bởi pháo binh. Việc siết chặt vòng vây kiểu trăn siết mồi của quân Nga khiến cho các lực lượng của Ukraine phải căng ra trên toàn tuyến phòng thủ vì họ không biết chính xác đâu là mũi tấn công chủ đạo của người Nga. Điều này khiến cho họ bị tiêu hao nhiều hơn vì pháo binh của Nga.
Vào đầu cuộc chiến, quân Ukraine đã tự hào về việc sở hữu các UAV Thổ Nhĩ Kỳ có giá thành khoảng 5 triệu đô la/chiếc và cười nhạo các drone do Nga sản xuất. Tình báo Ukraine đưa lên trên mạng xã hội video mổ xẻ một số chiếc UAV của Nga bị bắt được. Họ cho thấy rằng người Nga đã sử dụng những chiếc máy ảnh dân sự Cannon với giá 500 đô của Nhật gắn lên những chiếc UAV được sản xuất rất đơn giản và thậm chí bình xăng đựng xăng còn được chế tạo bằng cách tái sử dụng các chai nước CocaCola đã dùng. Sau 8 năm được NATO đào tạo, vào thời kỳ đầu của cuộc chiến, binh sĩ Ukraine cho rằng họ đang chiến đấu với vũ khí hiện đại hơn, đắt tiền hơn quân Nga. Tuy nhiên, trong chiến tranh, yếu tố hiệu quả lại quan trọng hơn. Trong khi số lượng UAV Thổ Nhĩ Kỳ mà Ukraine trữ từ trước chiến tranh nhanh chóng biến mất vì bị lực lượng phòng không Nga bắn hạ (và việc bổ sung các UAV cỡ lớn đắt tiền đó không thể tiến hành nhanh chóng, đặc biệt là khi Ukraine sống bằng viện trợ tài chính từ nước ngoài) thì các UAV rẻ tiền của người Nga bắt đầu làm mưa làm gió trên chiến trường.
Thiết kế và cách sử dụng của UAV của Thổ Nhĩ Kỳ và Nga cho ta thấy rõ lý thuyết quân sự và cách sử dụng UAV của hai quốc gia này hoàn toàn khác nhau.
Để tấn công vào chiến tuyến và hậu phương của đối phương, người Nga sử dụng 2 lực lượng là không quân, hải quân và tên lửa. Trong ba lực lượng này thì tên lửa là vũ khí được Nga phát triển mạnh nhất. Họ có rất nhiều loại tên lửa khác nhau phục vụ cho các mục đích khác nhau – từ tên lửa chiến lược xuyên lục địa mang đầu đạn hạt nhân tới các tên lửa tầm xa, tầm trung, tầm ngắn mang các đầu đạn thông thường. Tên lửa của họ có thể trang bị cho các lực lượng trên mặt đất, trên tàu chiến và tàu ngầm, trên máy bay. Chúng có thể bắn từ rất xa hoặc từ ngay sát mặt trận. Tên lửa hiện nay là vũ khí nguy hiểm nhất và an toàn cho bên tấn công nhất mà Nga sở hữu. Ngoài tên lửa thì lực lượng không quân Nga cũng còn có thể triệt hạ các mục tiêu bằng các loại bom từ thông minh tới bom “ngu”.
Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia không có không quân, hải quân và lực lượng tên lửa mạnh. Do đó, để tấn công các mục tiêu lớn ở tầm trung (về khoảng cách) họ chọn cách phát triển các thiết bị UAV kích cỡ lớn. Các UAV này sẽ mang các tên lửa có tầm ngắn (vì Thổ chưa sản xuất được các tên lửa tầm xa) vào gần mục tiêu. Vì không có nhiều máy bay để mang các tên lửa tầm ngắn này (và cũng để giảm thiểu thiệt hại về không quân khi, do tầm bắn ngắn của tên lửa, phi công phải bay vào vùng kiểm soát của phòng không đối phương) nên người Thổ chế tạo các UAV cỡ lớn. Bayraktar TB2 chính là một sản phẩm được sản sinh ra phục vụ nhu cầu đó. Nói một cách ngắn gọn là UAV của Thổ Nhĩ Kỳ là một thiết bị bay có trần bay thấp, tốc độ chậm và khối lượng vũ khí mang theo ít so với máy bay chiến đấu. Nếu như được sử dụng chống lại một đối phương không có một hệ thống phòng không tốt thì đây là một vũ khí vô cùng hiệu quả. Tuy nhiên, ở Ukraine, sau những chiến thắng đầu tiên của Bayraktar TB2, người Nga đã triển khai một hệ thống phòng không nhiều tầng, nhiều lớp. Sau khi hệ thống này đã triển khai thì Bayraktar biến mất khỏi cuộc chiến.
Về phía người Nga, trong khi các nhiệm vụ tấn công tầm xa và tầm trung được trao cho tên lửa thì các UAV của Nga chủ yếu là để cho (i) trinh sát tiền tuyến để cung cấp thông tin tình báo theo thời gian thực và (ii) tấn công cảm tử một cách chính xác các mục tiêu ngoài tầm bắn của pháo binh. Chính loại UAV trinh sát tiền tuyến rẻ tiền này của Nga là thứ mà các sỹ quan tình báo Ukraine cười nhạo thời gian đầu chiến tranh.
Tuy nhiên, tại Mariupol, trận đánh đầu tiên có hình thái trận địa chiến của cuộc chiến Ukraine, người ta thấy tính hiệu quả của các loại UAV rẻ tiền này. Với giá thành rẻ, các UAV trinh sát của Nga được trang bị cho nhiều đơn vị bộ binh và pháo binh. Điều này khiến cho quân Ukraine trong Mariupol, với diện tích phòng ngự ngày càng bị thu hẹp, bị phía Nga theo dõi gần như 24/24. Điều này khiến cho mọi cuộc phá vây của quân đội Ukraine bị chặn phá ngay từ đầu. Các đơn vị Ukraine bị bao vây tại nhà máy thép Azovstal có ba lần định phá vây. Lần thứ nhất, họ cải trang xe cơ giới của mình thành xe Nga bằng cách sơn chữ Z lên xe. Cuộc phá vây này bị chặn đánh và họ phải quay lại nhà máy. Ở lần phá vây thứ hai, các UAV Nga đã phát hiện việc quân Ukraine từ dưới hầm ngầm lên mặt đất chuẩn bị cho một cuộc phá vây. Người Nga, lần đầu tiên trong cuộc chiến, đã sử dụng máy bay ném bom chiến lược Tu-22M3 ném bom rải thảm nhà máy. (https://youtube.com/shorts/h9mXnle6Xms?feature=share). Cuộc ném bom này đã buộc quân Ukraine phải bỏ toàn bộ mặt đất và rút lui xuống hầm ngầm. Lần thứ 3, sau khi tình hình dưới hầm ngầm không thể chịu được nữa vì quân Nga phá nguồn tiếp nước, quân Ukraine đã lên mặt đất để chuẩn bị cho một cuộc phá vây cuối cùng. Lần này, người Nga đã bắn đạn cháy phủ trùm lên toàn bộ nhà máy khiến cuộc phá vây tan vỡ trước khi triển khai (https://www.dailymail.co.uk/news/article-10817825/Mariupol-Russian-incendiary-phosphorus-bombs-rain-Azovstal-steelworks.html) Sau đó vài ngày, quân Ukraine đầu hàng.
Việc sử dụng những chiếc UAV có giá vài ngàn đô này của Nga đã mang lại hiệu quả đáng kinh ngạc cho các vũ khí tưởng chừng như lạc hậu. Ít người biết rằng các khẩu pháo 152mm và 130 mm mà đội quân tư nhân Wagner sử dụng ở Bakhmut trong suốt nhiều tháng nay đa phần là các khẩu pháo do Liên Xô sản xuất những năm 1950. Tuy nhiên, thực tế chiến trường cho thấy rằng, với sự hiệu chỉnh đường bắn của các UAV, các khẩu pháo có 70 năm tuổi đời này vẫn có sức công phá không kém gì các khẩu pháo hiện đại. Về bản chất, đối với bộ binh hay thiết giáp, khi trúng một viên đạn pháo 152 mm bắn ra từ khẩu pháo 70 tuổi thì cái chết cũng không khác gì với cái chết đến từ một khẩu pháo mới sản xuất năm 2020.
Việc thiếu vắng các UAV của Nga trong tháng đầu tiên của chiến tranh khiến nhiều người cho rằng Nga không phát triển mạnh về mảng này. Tuy nhiên chúng ta biết rằng quân đội sử dụng UAV nhiều nhất trong tác chiến hiện nay lại không phải là quân đội Mỹ mà là quân đội Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc cũng là cường quốc số 1 về sản xuất và phát triển UAV dân sự và quân sự, cả về số lượng, chủng loại lẫn chất lượng. Các cuộc tập trận chung giữa quân Nga và quân Trung Quốc trong 5-7 năm gần đây đã cho các tướng lĩnh Nga thấy rõ ưu thế của UAV trong chỉ huy tác chiến. Tuy nhiên, trong tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh, khi quân Nga chủ yếu dựa vào phương thức vận động chiến thì vai trò của UAV không được đánh giá cao. Chỉ khi họ bắt đầu tiến hành các trận đánh mang tính trận địa chiến thì vai trò của UAV mới trở nên nổi bật.
Trận vây hãm Mariupol cho thấy phương thức tác chiến của Nga đối với các vị trí phòng thủ vững chắc của Ukraine là không dùng bộ binh tấn công trực diện mà chọn phương thức bao vây, sử dụng trinh sát đường không để phát hiện các điểm tập trung của Ukraine và sau đó sử dụng hỏa lực pháo binh tối đa để tiêu hao sinh lực địch. Các đơn vị tăng thiết giáp sẽ tiến hành yểm trợ bằng hỏa lực cho bộ binh khi họ tiến lên quét sạch từng dãy phố. Trong giai đoạn vây hãm Mariupol, trung bình một ngày, quân đội Nga sử dụng tới 40.000 quả đạn pháo hạng nặng. Con số này bằng ½ tổng số đạn pháo lớn mà quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã bắn trong toàn bộ chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Đọc đến đây, có thể có bạn sẽ nói với tôi rằng có rất nhiều video trong đó quân Nga tiến công theo kiểu vỗ mặt. Tôi không nói các video đó là giả, nhưng tôi nói rằng nó không phản ánh chiến lược quân sự của Nga. Ở bất kỳ cuộc chiến nào, bất kỳ thời gian nào cũng có những người chỉ huy tồi, hoặc những trận đánh mà người chỉ huy quyết định sai. Các video của các bạn thuộc diện đó. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách tổng thể thì chúng ta thấy rằng người Nga khi chuyển sang giai đoạn 2 và cả sau này, đã sử dụng tối đa hỏa lực để tiết kiệm xương máu của quân đội mình. Một điều đáng lưu ý trong cuộc bao vây kéo dài 2 tháng này ở Mariupol, những người sốt ruột vì sự cẩn trọng trong hành động của quân Nga không phải là Putin hay bộ chỉ huy Nga mà lại là báo chí phương Tây và những người quan sát như chúng ta. Kiev và báo chí phương Tây hy vọng rằng người Nga sẽ xung phong vỗ mặt vào nhà máy, chui xuống tầng hầm chiến đấu với quân Ukraine trong hàng chục cây số đường hầm dưới lòng nhà máy. Đó sẽ là một kịch bản đẹp cho tuyên truyền phương Tây, trong đó những người lính Ukraine sẽ chiến đấu tới viên đạn cuối cùng và chỉ chịu đầu hàng sau khi đã hết đạn. Các tướng lĩnh Nga sẽ bị coi là nướng quân cho mục đích chính trị để làm đẹp lòng nhà độc tài Putin. Họ mong muốn như thế và thậm chí làm mọi cách để nó xảy ra. Khi ngày 9/5, ngày lễ chiến thắng phát xít Đức tại Nga tới gần, báo chí phương Tây đua nhau đưa tin rằng một cuộc tổng tấn công sẽ nổ ra và quân Nga sẽ bất chấp mọi hy sinh để có thể chiếm được Azovstal trước ngày đó. Thực tế là chẳng có gì xảy ra như vậy. Vào Ngày Chiến thắng, quân Nga vẫn ngồi theo dõi duyệt binh trên Quảng trường Đỏ qua tivi và Azovstal qua UAV. Mỗi khi có động tĩnh trên mặt đất trong nhà máy thì họ tặng cho người Ukraine một cơn bão đạn. Cuối cùng thì quân đội Ukraine ra hàng mà không có một trận đánh cuối cùng anh hùng nào cả. Cuộc vây hãm Mariupol là một trong những minh chứng rõ nhất cho chiến lược đánh chắc, tiết kiệm xương máu của Nga trong cuộc chiến tranh Ukraine.
Từ ngày 16/5/2022, các đơn vị Ukraine bị bao vây tại Azovstal, Mariupol bắt đầu ra hàng. Những người lính Ukraine cuối cùng ra hàng ngày 20/5/2022. Sau khi Mariupol đầu hàng, câu hỏi đặt ra là lực lượng chủ lực của Nga ở đây sẽ tiến đi đâu. Lúc bây giờ, một khả năng rất lớn là lực lượng này sẽ tiến về Zaporozhyia ở phía Tây Bắc và kết hợp với một mũi tiến công từ Kherson từ phía Tây để hợp vây thành phố này (đường tấn công màu xanh dương đậm trong hình H6). Vì lý do này, một số lớn các lực lượng dự bị của Ukraine đã được điều về đây. Tuy nhiên, sau những hoạt động nghi binh là đánh Zaporozhyia thì quân Nga lại tiến vòng qua Donetsk rồi lên đánh Prospana, bao vây, tiêu diệt một cụm quân khoảng 4.000 quân Ukraine ở đây rồi cuối cùng, cùng với các lực lượng từ mặt trận Kiev tiến về đây 2 tháng trước đó, hợp vây quân Ukraine tại Severodonetsk và Lysychansk.
Một chuỗi thắng lợi ở Prospana, Severodonetsk và Lysychansk của Nga nhiều điều đáng chú ý.
Về phía Ukraine, sau khi Mariupol bị mất, bộ chỉ huy quân đội Ukraine và tổng thống Zelensky mâu thuẫn trầm trọng và trở nên công khai. Trong tháng 2 và tuần đầu tháng 3/2022, sau khi quân Nga vượt qua được phòng tuyến phong tỏa Crimea, và lần lượt chiếm các thành phố dọc bở biển Azov thì ai cũng nhận thấy rằng người Nga đang thiết lập một hành lang trên mặt đất để nối Crimea với Nga. Mặc dù cây cầu Kersch nối giữa Crimea và Nga đã được xây xong từ năm 2020 nhưng nếu cây cầu này bị phá hủy thì Crimea sẽ bị cắt khỏi bán đảo Taman của Nga. Lúc này Mariupol là chốt chặn cuối cùng của Ukraine để ngăn Nga thiết lập một cây cầu không thể bị phá hoại trên mặt đất tới Crimea. Việc thiết lập được cầu nối trên đất liền này cũng là một trong những mục tiêu công khai, hàng đầu của Nga. Điều này có nghĩa là về cả mặt chính trị lẫn quân sự thì việc giữ Mariupol có ý nghĩa rất quan trọng.
Tuy nhiên, điều này chỉ là trên lý thuyết. Bộ chỉ huy quân đội Ukraine nhận thức rõ ràng là sau khi cụm quân phía Nam của Ukraine bị đánh tan và mất Kherson thì khả năng chiếm lại Crimea là không thể (chí ít là họ sẽ không có bất kỳ lực lượng có sẵn nào cho việc này). Về mặt chính trị, bộ chỉ huy Ukraine cho rằng bảo vệ được những gì còn lại ở mặt trận phía Nam sẽ có lợi về mặt chính trị hơn là hy sinh nó để Putin không đạt được mục đích chính trị của mình. Chính vì vậy mà họ đề nghị bỏ Mariupol. Về phần Zelensky, sau những thành công trong việc “lừa” cho Nga ngồi vào bàn đàm phán để mua thời gian (và thực tế là Nga giảm cường độ đánh phá bằng tên lửa cũng như tạm dừng tấn công trên mặt trận Kiev); sau khi phương Tây đã thay đổi thái độ 180 độ và bắt đầu cung cấp vũ khí cho Ukraine cũng như tiến hành cấm vận triệt để Nga; sau khi ông trở thành một chính trị gia sáng nhất trên bầu trời chính trị thế giới thì việc rút bỏ Mariupol sẽ là một thất bại to lớn về mặt chính trị cho bản thân ông. Trên bàn đàm phán, một khi người Nga đã thiết lập được một hành lang trên mặt đất nối với Crimea thì các điều kiện đàm phán của họ cũng sẽ rắn hơn và phương Tây có thể sẽ lại nghĩ lại trong việc ủng hộ Ukraine. Chính vì các lý do này mà Zelensky đã cương quyết không đồng ý cho việc rút lui.
Đến lúc này, có thể bị kích thích bởi những “thắng lợi” ở mặt ngoại giao và mặt trận Kiev mà Zelensky không nhận ra là ở phía Nam Ukraine, người Nga không đùa, họ đang tiến hành một cuộc chiến tranh thực sự, không khoan nhượng, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tiến trình đàm phán nào.
Ở đây có một điều ngoạn mục đã xảy ra. Zelensky, để cứu Kiev và Kharkov đang bị Nga “bao vây”, đã quyết giữ Mariupol bằng mọi giá. Tuy nhiên, ông có thể đã không nhận ra rằng Putin đã bị ông “lừa” và để mất khả năng chiếm Kiev và Kharkov – cái khả năng thực ra chưa bao giờ tồn tại (đến giờ liệu ai còn có thể tin là với 16.000 quân thì Nga có thể chiếm được hai thành phố có gần 4 triệu dân và gần 40.000 km2 diện tích phụ cận?). Trong khi Putin “bỏ mất” cái ông không thể chiếm là Kharkov và Kiev thì ông lại khiến cho Zelensky cố giữ một thành phố không thể giữ - đó là Mariupol và cùng với nó là lực lượng tinh nhuệ nhất của Ukraine ở phía Nam.
Bộ chỉ huy Ukraine nhìn thấy cái kế đó của Putin nhưng họ không thể thuyết phục được Zelensky và do đó, mâu thuẫn nảy sinh.
Sau khi Mariupol thất thủ, mâu thuẫn giữa bộ chỉ huy quân đội Ukraine và Zelensky ngày càng tăng trong việc rút lui hay cố thủ. Lần lượt ở Prospana, Severodonetsk và Lysychansk, tổng tư lệnh quân Ukraine công khai nói với báo chí về khả năng bị quân Nga bao vây và việc tổng thống không cho rút lui. Cùng thời gian này, sự sụp đổ cả về vật chất lẫn tinh thần của cánh quân Donbass của Ukraine đã trở nên rất rõ.
Trong tháng 5/2022, quân Ukraine đã có một chiến thắng vang dội khi họ đập tan một cuộc vượt sông Siverskyi Donets của cánh quân Nga từ Kiev về. Trong cuộc vượt sông này, do sai lầm của chỉ huy, quân Nga đã chịu thiệt hại nặng nề cả về người lẫn tăng và thiết giáp. Tuy nhiên, say với chiến thắng này, quân Ukraine cũng tiến hành vượt sông phản công theo hướng ngược lại và cũng lại bị quân Nga giáng cho một đòn nặng nề. Tuy nhiên, điều đáng nói là những lực lượng Ukraine vượt sông phản công vào lúc đó có một số lượng lớn tân binh được động viên đợt 4. Trong tháng 3 và 4/2022, Ukraine tiến hành tổng động viên 4 đợt và những tân binh ở đợt 4 có không tới 3 tuần huấn luyện đã được tung vào một cuộc vượt sông. Vượt sông dưới hỏa lực trực tiếp của địch làm một hoạt động tác chiến khó nhất trong chiến tranh và thường được thực hiện bởi các đơn vị thiện chiến nhất. Tuy nhiên, vào cuối tháng 5/2022, người Ukraine đã tung những tân binh mới tuyển vào nhiệm vụ này. Điều này có thể là do sự vô trách nhiệm của người chỉ huy nhưng tôi nghiêng về việc họ đã cạn các lực lượng thiện chiến trong các trận đánh trước. Trong tháng 6 và 7/2022 (tức là trong suốt các trận đánh ở Prospana, Severodonetsk và Lysychansk) đã xuất hiện nhiều video của các đơn vị Ukraine trên mạng xã hội. Để tránh bị xử tội phản quốc, họ công bố các video với toàn bộ binh lính trong đơn vị để nói về tình trạng thiếu vũ khí, đạn dược, bị chỉ huy bỏ rơi để làm căn cứ cho việc từ chối thi hành các mệnh lệnh chiến đấu.
Trong cả ba trận Prospana, Severodonetsk và Lysychansk, quân Ukraine đều rút ra khi vòng vây gần như đã sắp khép lại. Do đó, họ đã chịu tổn thất lớn trên đường rút lui và một số đơn vị không kịp rút đã buộc phải đầu hàng.
Sau khi Lysyschansk thất thủ và giai đoạn 2 của cuộc chiến khép lại, thì sự mâu thuẫn giữa tổng thống và bộ chỉ huy lại phát sinh nghiêm trọng. Tuy nhiên, mâu thuẫn lần này là ở phía Nga dù họ vừa có một loạt chiến thắng ngoạn mục. Về vấn đề này, chúng ta sẽ bàn thêm ở phần sau, phần 6.
Tóm tắt một cách ngắn gọn là ở giai đoạn này Putin “mất” thứ ông không hề có và để giữ thứ mà Putin không thể lấy được, Zelensky đã mất những thứ thực sự quan trọng nhất ở phía Nam và phía Đông: đó là các lực lượng tinh nhuệ mất 8 năm xây dựng của Ukraine và sự thống nhất với bộ chỉ huy quân đội của mình.
LƯU Ý VỀ BẢN QUYỀN:
Oldest comments (0)