Đối phó với hai siêu cường cùng lúc không bao giờ là một điều dễ dàng, kể cả khi đó là siêu cường toàn cầu như Mỹ. Mặt trận phía Tây trong cuộc đối đầu với Nga và mặt trận phía Đông trong chiến lược kiềm tỏa Trung Quốc đã và đang liên tục đặt ra những thách thức mới cho Chính quyền Tổng thống Biden. Nhìn lại cuộc chơi này trong năm 2022, Giáo sư Ngô Tân Bác – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Phúc Đán kiêm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Mỹ (Trung Quốc) có bài phân tích đáng chú ý. Nội dung cụ thể như sau:
Chiến đấu trên hai mặt trận Đông – Tây là đặc điểm chính trong chính sách ngoại giao của Biden vào năm 2022.
Năm 2022, chính sách ngoại giao của Chính quyền Biden đã tập trung vào hai vấn đề lớn: xử lý xung đột Nga – Ukraine và thúc đẩy cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc. Sau khi Biden nhậm chức, ông gọi Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh nghiêm trọng nhất” và “đối thủ duy nhất có khả năng toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao, quân sự và công nghệ để tạo ra một thách thức lâu dài đối với trật tự quốc tế ổn định và cởi mở”.
Trên cơ sở hàn gắn quan hệ đồng minh và tận dụng các nguồn lực của đồng minh trong năm đầu tiên cầm quyền, Chính quyền Biden tập trung thúc đẩy “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” vào năm 2022 nhằm tăng cường ngăn chặn và kiềm chế Trung Quốc. Tuy nhiên, kế hoạch tiến triển tương đối chậm, xung đột Nga-Ukraine nổ ra đã làm gián đoạn các tính toán ngoại giao của Chính quyền Biden, buộc chính quyền này phải dồn nhiều tâm sức hơn cho vấn đề Ukraine. Mặt khác, Chính quyền Biden cũng đang tăng cường cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đồng thời đang cố gắng sử dụng xung đột giữa Nga và Ukraine để thúc đẩy các mục tiêu kiềm chế Trung Quốc của mình.
Ứng phó với xung đột Nga-Ukraine
Ngay từ cuối năm 2021, chính quyền Biden đã đưa ra cảnh báo Nga chuẩn bị tấn công Ukraine, đồng thời liên lạc với nhiều bên (bao gồm cả Nga) nhằm ngăn chặn xung đột bùng phát, nhưng nỗ lực của Washington đã không thành công. Sau khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra vào ngày 24 tháng 2, Mỹ đã phản ứng nhanh chóng bằng việc hỗ trợ Ukraine và gây áp lực lên Nga.
Ngay sau khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra, chính quyền Biden tuyên bố cung cấp vũ khí và thiết bị cho Ukraine, bao gồm tên lửa chống tăng và tên lửa phòng không cá nhân cùng nhiều loại vũ khí, trang thiết bị khác. Ngoài ra, Mỹ cũng đã cung cấp cho Ukraine một lượng lớn thông tin tình báo và hỗ trợ huấn luyện quân sự. Vào ngày 9/5/2022, Biden đã ký một đạo luật cho phép đơn giản hóa đáng kể các thủ tục để Mỹ cung cấp viện trợ quân sự và các nguồn lực cần thiết khác cho Ukraine. Theo nội dung thỏa thuận trong đạo luật, Ukraine có thể yêu cầu vũ khí và nhu cầu trang bị vũ khí từ Mỹ và các đồng minh, trong khi chính phủ Mỹ sử dụng chương trình cho vay quân sự để tăng tốc độ chuyển giao thiết bị quân sự, thuốc men, thực phẩm, v.v. đến Ukraine. Từ khi bùng nổ xung đột Nga-Ukraine đến tháng 12 năm 2022, Mỹ đã cam kết viện trợ khoảng 50 tỷ USD cho Ukraine.
Tháng 12/2022, Tổng thống Ukraine Zelensky đã đến thăm Mỹ, đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của ông sau khi chiến tranh bùng nổ. Zelensky đã có bài phát biểu trước Quốc hội Mỹ, kêu gọi Mỹ tăng cường hỗ trợ cho Ukraine. Trong chuyến thăm này, chính quyền Biden đã quyết định cung cấp cho Ukraine hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot. Quốc hội cũng đã thông qua tổng cộng 45 tỷ đô la viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo cho Ukraine và các đồng minh NATO trong năm tài khóa 2023. Ngoài ra, Washington cũng đang tích cực thúc đẩy các đồng minh có nhiều hỗ trợ khác cho Ukraine, trong đó viện trợ từ Liên minh châu Âu lên tới 50 tỷ euro. Chính sự hỗ trợ to lớn mà Mỹ dẫn đầu các đồng minh phương Tây dành cho Ukraine đã giúp Ukraine chống trả thành công làn sóng tấn công quân sự đầu tiên của Nga, từng bước thay đổi cục diện chiến trường, kéo xung đột Nga-Ukraine vào thế giằng co. Đó là một cuộc chiến tranh tiêu hao mà Nga không mong muốn. Mục tiêu của Mỹ trong cuộc xung đột này cũng thay đổi, từ giúp Ukraine chống lại cuộc tấn công quân sự của Nga sang kìm chân và làm suy yếu Nga càng nhiều càng tốt. Xung đột giữa Nga và Ukraine ngày càng bộc lộ những nét đặc trưng của một cuộc chiến tranh ủy nhiệm.
Trên phương diện gây áp lực lên Nga, Mỹ và các đồng minh châu Âu tăng cường áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế mạnh mẽ đối với Nga. Tốc độ ban hành, phạm vi bao phủ rộng và cường độ thực hiện lớn chưa từng có kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Các biện pháp trừng phạt bao gồm đóng băng tài sản, ngăn chặn các giao dịch tài chính, bổ sung bằng các biện pháp kiểm soát thương mại công nghệ cao, đình chỉ các dự án lớn… Trong số đó, chẳng hạn như loại bỏ một số ngân hàng Nga khỏi “hệ thống thanh toán quốc tế”, hạn chế sử dụng dự trữ ngoại hối hơn 600 tỷ USD của ngân hàng trung ương Nga và đình chỉ dự án đường ống dẫn khí tự nhiên “dòng chảy phương Bắc-2”, v.v., và những biện pháp “trừng phạt” chưa từng có khác. Washington dự định sử dụng “ba mũi nhọn” trong ba lĩnh vực lớn là tài chính, năng lượng và công nghệ nhằm gây tổn hại nghiêm trọng đến nền tảng kinh tế, năng lực sản xuất quân sự cũng như khả năng tài chính duy trì chiến tranh của Nga, khiến Nga không thể đứng vững trên chiến trường mà phải rút lui.
Thứ hai là cô lập và tấn công Nga ở mức độ chưa từng có về mặt ngoại giao, làm suy yếu vị thế và uy tín quốc tế của Nga. Mỹ đã nhiều lần triệu tập các hội nghị thượng đỉnh NATO, hội nghị thượng đỉnh Mỹ-EU và hội nghị thượng đỉnh G7 để áp đặt lập trường của mình, thúc đẩy việc LHQ thông qua các nghị quyết liên quan để thành lập một mặt trận thống nhất quốc tế chống lại Nga.
Đầu tháng 3/2022, phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 11 của Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua nghị quyết lên án mạnh mẽ hành động quân sự của Nga đối với Ukraine, yêu cầu Nga chấm dứt ngay việc sử dụng vũ lực đối với Ukraine và rút quân ngay lập tức, hoàn toàn và vô điều kiện; Cũng trong tháng 3, phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 11 của Đại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết về các vấn đề nhân đạo ở Ukraine, kêu gọi thành lập các hành lang nhân đạo, ngừng giao tranh và rút quân; Đầu tháng 4, phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 11 của Đại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết tạm thời hủy tư cách thành viên của Nga trong Hội đồng Nhân quyền LHQ; Vào tháng 10, phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 11 của Đại hội đồng LHQ đã thông qua nghị quyết có tựa đề “Sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine: Bảo vệ các nguyên tắc của Hiến chương LHQ”; Giữa tháng 11, phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 11 về Biện pháp khắc phục và bồi thường chung của LHQ”.
Mỹ cũng đã cố gắng loại Nga ra khỏi G20, nhưng khi thất bại, họ đã tẩy chay hàng loạt cuộc họp của G20 có sự tham gia của Nga. Tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 ở Bali vào tháng 11/2022, Mỹ đã thúc đẩy việc đưa nội dung về xung đột Nga-Ukraine vào tuyên bố chung. Điều đáng chú ý là sau khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra, Mỹ vẫn duy trì các kênh liên lạc với Nga, Bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại trưởng, Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ đã liên tiếp liên lạc với người đồng cấp Nga để trao đổi về các vấn đề liên quan.
Mặc dù Mỹ và các đồng minh đã áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế và áp lực ngoại giao chưa từng có đối với Nga nhưng hiệu quả không mấy khả quan. Nền kinh tế Nga đã đứng vững trước các lệnh trừng phạt như sóng thần do phương Tây áp đặt, mặc dù GDP hàng năm giảm khoảng 3% nhưng không bị sụp đổ. Thông qua chính sách kiểm soát vĩ mô mạnh mẽ, Nga đã duy trì trật tự tài chính trong nước ổn định và tỷ giá hối đoái của đồng rúp so với đồng đô la Mỹ và đồng euro vào cuối năm đã vượt quá mức đầu năm. Về mặt ngoại giao, nhiều thành viên của cộng đồng quốc tế đã không tham gia vào các biện pháp trừng phạt chống lại Nga và nhiều quốc gia đã không bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết về cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine tại LHQ. Việc Washington không hiện thực hóa mong muốn của một số quốc gia theo chân Mỹ trong cuộc xung đột Nga-Ukraine làm nổi bật những hạn chế về ảnh hưởng của Mỹ và thực tế của chủ nghĩa đa nguyên trong chính trị quốc tế.
Khi chiến tranh kéo dài và hiệu ứng phản ứng dữ dội của các biện pháp trừng phạt ngày càng gia tăng, sự bất mãn trong lòng Mỹ và phương Tây đang lớn dần, điều này đang thử thách tính bền vững của việc ủng hộ Ukraine cũng như các biện pháp trừng phạt chống lại Nga. Quan trọng hơn, các biện pháp trừng phạt và sức ép của phương Tây không làm thay đổi quyết tâm và hành động của Nga, xung đột Nga – Ukraine không những kéo dài mà còn có nguy cơ tiếp tục leo thang và mất kiểm soát.
Tăng cường kiềm chế Trung Quốc
Vào năm 2022, việc chính quyền Biden kiềm chế Trung Quốc sẽ chủ yếu tập trung vào ba quân bài chiến lược: xung đột Nga-Ukraine, Đài Loan và công nghệ.
Sau khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra, đầu tiên Mỹ đề nghị Trung Quốc sát cánh cùng Mỹ lên án Nga và ủng hộ thực thi các biện pháp trừng phạt quốc tế đối với Nga. Sau khi bị Trung Quốc từ chối, Washington tung tin đồn thất thiệt, vu khống rằng Trung Quốc đã biết trước Nga sẽ thực hiện “các hoạt động quân sự đặc biệt” chống lại Ukraine, kế hoạch cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ Nga thông qua một loạt thỏa thuận hợp tác đạt được với Nga trong chuyến thăm Trung Quốc của ông Putin hồi tháng Hai. Sau khi Mỹ và các đồng minh tiếp tục tăng cường trừng phạt Nga và xung đột Nga – Ukraine trở thành cuộc chiến kéo dài, Mỹ đã gây áp lực buộc Trung Quốc không được giúp Nga hóa giải các lệnh trừng phạt và không hỗ trợ quân sự cho Nga. Đồng thời, Mỹ đã bóp méo câu chuyện thách thức “trật tự quốc tế tự do” bằng cách tô vẽ cái gọi là “trục Trung Quốc-Nga”, coi thường hình ảnh quốc tế của Trung Quốc, chia rẽ các đồng minh châu Âu và Trung Quốc, và định hướng NATO chú ý nhiều hơn đến cái gọi là thách thức từ Trung Quốc, thúc đẩy chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ.
Sau khi xung đột Nga-Ukraine bùng nổ, Mỹ cũng tăng cường can thiệp vào vấn đề Đài Loan. Chính quyền Biden cho rằng trước những thay đổi của tình hình eo biển Đài Loan, Mỹ nên điều chỉnh khuôn khổ chính sách đối với hòn đảo này: một là, tăng cường hỗ trợ cho Đài Loan; hai là, tăng cường răn đe Trung Quốc. Washington đã cử một phái đoàn cấp cao đến Đài Bắc để khởi động “đối thoại chiến lược” với Đài Loan nhằm thảo luận về hợp tác quân sự Mỹ-Đài Loan. Các nội dung chủ yếu bao gồm: bán thêm vũ khí và thiết bị cho Đài Loan, hỗ trợ đào tạo cho quân đội Đài Loan, và tăng cường sức mạnh quan hệ kinh tế Mỹ-Đài Loan. Mỹ đã thực hiện cái gọi là đàm phán “Sáng kiến thương mại thế kỷ XXI”, thúc đẩy Công ty TNHH Sản xuất chế tạo chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) xây dựng nhà máy ở Mỹ, v.v. Mặt khác, Mỹ đang tích cực tăng cường triển khai và hiện diện quân sự ở Tây Thái Bình Dương, lôi kéo các đồng minh can thiệp vào vấn đề Đài Loan, tìm cách tăng cường “không gian quốc tế” của hòn đảo này và thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Đài Loan.
Thành trì của các lực lượng thân Đài Loan tại Quốc hội Mỹ cũng đã liên tục có những động thái về vấn đề Đài Loan. Hàng chục thượng nghị sĩ và đại diện của Mỹ đã đến thăm Đài Loan để bày tỏ sự ủng hộ đối với đảo này. Trong số đó, Chủ tịch Hạ viện Pelosi đã đến thăm Đài Loan vào đầu tháng 8/2022, bà là quan chức cấp cao nhất của Mỹ đến thăm Đài Loan trong 25 năm qua. Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã thông qua “Đạo luật Chính sách Đài Loan năm 2022”, sẽ hủy bỏ các hạn chế đối với trao đổi chính thức giữa Mỹ và Đài Loan, đổi tên “Văn phòng Đại diện Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc” thành “Văn phòng Đại diện Đài Loan”; họ gọi Đài Loan là “đồng minh lớn ngoài NATO”. Cung cấp 6,5 tỷ đô la hỗ trợ an ninh cho Đài Loan trong vòng bốn năm. Dự luật này tương đương với việc khôi phục mối quan hệ chính thức giữa Mỹ và Đài Loan cùng “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Đài.” Mặc dù dự luật không được Thượng viện và Hạ viện thông qua do sự phản đối mạnh mẽ từ Trung Quốc, nhưng Đạo luật ủy quyền quốc phòng cho năm tài chính 2023 được Quốc hội Mỹ thông qua vào tháng 12/2022 đã yêu cầu Bộ Ngoại giao Mỹ cung cấp cho Đài Loan tổng cộng 10 tỷ USD viện trợ quân sự trong vòng 5 năm tới và 2 tỷ USD cho vay trực tiếp để tài trợ quân sự, đồng thời mời Đài Loan tham gia cuộc tập trận RIMPAC 2024. Dưới sự chống lưng của cơ quan hành pháp và lập pháp Mỹ, bản chất khiêu khích và mạo hiểm trong chính sách của Mỹ đối với Đài Loan đã tăng lên đáng kể.
Chính quyền Biden tin rằng việc duy trì lợi thế công nghệ so với Trung Quốc là chìa khóa để Mỹ duy trì lợi thế kinh tế và quân sự trong cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc. Cố vấn Hội đồng An ninh Quốc gia Sullivan nói rằng các công nghệ sẽ rất quan trọng trong thập kỷ tới bao gồm công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ năng lượng mới. Vào năm 2022, Mỹ sẽ tập trung vào chiến lược hạn chế công nghệ của Trung Quốc trong lĩnh vực bán dẫn. Vào ngày 7/10/2022, Cục Công nghiệp và An ninh của Bộ Thương mại Mỹ đã chính thức công bố các quy định mới về kiểm soát xuất khẩu chip sang Trung Quốc, hạn chế toàn diện các công ty bán dẫn toàn cầu bán bất kỳ siêu máy tính, trí tuệ nhân tạo và chip điện toán lượng tử nào cho Trung Quốc; đưa ra tiêu chuẩn mới nhằm kiểm soát xuất khẩu chip từ 10 nanomet được điều chỉnh thành 14-16 nanomet và lệnh cấm cũng bao gồm thiết bị sản xuất, công nghệ, vật liệu chính, phần mềm công cụ phát triển, dịch vụ và cả nhân tài. Cho đến nay, đây là chính sách ngăn chặn toàn diện và nghiêm khắc nhất đối với ngành công nghiệp bán dẫn của Trung Quốc được triển khai bởi Mỹ. Vào ngày 25/11/2022, Ủy ban Truyền thông Liên bang Mỹ đã cấm Huawei và năm công ty Trung Quốc khác bán thiết bị mới tại Mỹ vì lo ngại sẽ đe dọa “an ninh quốc gia”. Vào giữa tháng 12/2022, Mỹ đã mở rộng phạm vi cấm vận đối với ngành công nghiệp chip của Trung Quốc, đưa 36 công ty công nghệ, bao gồm cả nhà sản xuất chip nhớ Yangtze Memory của Trung Quốc vào danh sách đen thương mại.
Ngoài các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và phong tỏa thị trường này, chính quyền Biden cũng đã chỉ thị cho Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Mỹ vào ngày 15/9/2022 tăng cường hơn nữa việc rà soát an ninh đối với đầu tư nước ngoài nhằm hạn chế việc “chảy máu công nghệ” do đầu tư của Mỹ ở Trung Quốc gây ra. Ngoài ra, Mỹ đang tích cực gây áp lực lên Nhật Bản, Hà Lan và các nước khác hợp tác với Mỹ trong việc ngăn chặn ngành công nghiệp bán dẫn của Trung Quốc. Mỹ cũng đang thúc đẩy việc thành lập “Liên minh chip” bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, với mục tiêu tách chuỗi công nghiệp chip cao cấp khỏi Trung Quốc và cải thiện năng lực sản xuất chip cao cấp của Mỹ.
Chính sách Trung Quốc của chính quyền Biden tập trung vào ngăn chặn và kiềm chế, đã nhiều lần bị đáp trả trong thực tế.
Một là sự phản ứng kiên quyết từ phía Trung Quốc. Việc Mỹ gây áp lực lên Trung Quốc về vấn đề xung đột giữa Nga và Ukraine không làm thay đổi lập trường, nguyên tắc của Trung Quốc về vụ việc này cũng như không cản trở sự phát triển của quan hệ Trung-Nga. Hành vi khiêu khích của Mỹ đối với vấn đề Đài Loan đã bị phía Trung Quốc kiên quyết phản bác, phía Trung Quốc đang nỗ lực giành thế chủ động và làm chủ tình hình eo biển Đài Loan.
Thứ hai là sự chỉ trích từ cộng đồng doanh nghiệp Mỹ. Cộng đồng doanh nghiệp Mỹ lạc quan về thị trường Trung Quốc và hy vọng phát triển quan hệ kinh tế, thương mại với Trung Quốc nhưng vô cùng thất vọng vì chính quyền Biden không xử lý tốt quan hệ với nước này. Greenberg – Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của Starr Group, thậm chí còn khởi xướng một cuộc đối thoại giữa các cựu quan chức chính phủ Trung Quốc và Mỹ cũng như các doanh nhân để thúc đẩy cải thiện quan hệ Trung-Mỹ.
Thứ ba là mâu thuẫn giữa việc kiềm chế Trung Quốc với một số mục tiêu ngoại giao của chính quyền Biden, dù là ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an ninh năng lượng hay ứng phó với các vấn đề điểm nóng khu vực và quốc tế thì hợp tác với Trung Quốc là không thể tách rời. Một mặt kiềm chế, trấn áp Trung Quốc, mặt khác trông cậy vào sự hợp tác của Trung Quốc khi cần thiết. Mộng tưởng đó của Washington sẽ không có tác dụng.
Ngày 14/11/2022, lãnh đạo Trung Quốc và Mỹ đã có cuộc gặp bên lề hội nghị thượng đỉnh G20 tại Bali, đây là cuộc gặp ngoại tuyến đầu tiên giữa lãnh đạo hai nước kể từ khi Biden nhậm chức. Trong hơn ba giờ hội đàm, hai bên đã đi sâu trao đổi quan điểm về các vấn đề chiến lược trong quan hệ Trung-Mỹ cũng như các vấn đề lớn của khu vực và toàn cầu. Cuộc gặp này sẽ góp phần cải thiện bầu không khí quan hệ song phương, thúc đẩy hợp tác thiết thực giữa hai nước trên một số lĩnh vực cụ thể, hoạch định lộ trình phát triển quan hệ hai nước trong giai đoạn tiếp theo. Chính quyền Biden đã tích cực thúc đẩy cuộc gặp này, cho thấy họ có ý định điều chỉnh chính sách Trung Quốc theo hướng cải thiện ở một mức độ nhất định, nhưng vẫn còn phải xem sự điều chỉnh này có thể đi được bao xa.
Thế lưỡng nan
Trong “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” do chính quyền Biden công bố năm 2022, Mỹ hiện đang đối mặt với hai thách thức chiến lược lớn: một là cạnh tranh giữa các cường quốc, hai là các vấn đề xuyên quốc gia như biến đổi khí hậu, dịch bệnh truyền nhiễm, khủng bố, vấn đề lương thực và năng lượng… Chính quyền Biden nhận ra rằng không dễ đối phó với những thách thức của các vấn đề xuyên quốc gia trong môi trường quốc tế cạnh tranh, bởi sự gia tăng của các yếu tố địa chính trị, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy khiến hợp tác quốc tế trở nên khó khăn hơn.
Tuy nhiên, chính quyền Biden không nhận ra hoặc không muốn thừa nhận rằng Mỹ không thể đồng thời kiềm chế Trung Quốc và Nga dưới danh nghĩa cạnh tranh cường quốc. Trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng, Mỹ thiếu sức mạnh và ảnh hưởng đủ để kiềm chế cùng lúc cả hai cường quốc là Trung Quốc và Nga. Nếu như hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan từng làm suy yếu nghiêm trọng chiến lược của Mỹ, thì sự chèn ép của Trung Quốc và Nga ngày nay đang khiến Mỹ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Năm 2022, chiến tranh bùng nổ tại Ukraine và tập trận quy mô lớn ở eo biển Đài Loan là lời cảnh báo lớn đối với Mỹ, nếu Washington phớt lờ, họ sẽ mắc thêm một sai lầm chiến lược to lớn.
Biên dịch: Hoàng Hải
Nguồn: 吴心伯, “不可能的任务:拜登外交两线作战左支右绌”, 澎湃新闻 ∙ 外交学人, 11.1.2023
Về tác giả: Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Tân Bác ( _吴心伯__ ), Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Phúc Đán kiêm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Mỹ._
Các hướng nghiên cứu chính của ông: Chính sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc; Quan hệ Trung-Mỹ; Chính trị và an ninh Châu Á – Thái Bình Dương
Top comments (0)